3000 câu hỏi ôn tập Ngữ văn (Phần 32)
Câu 1. Thống kê tên các thể loại, kiểu văn bản và tên văn bản cụ thể đã học trong sách Ngữ văn 6, tập hai.
Trả lời:
– Truyện: Bài học đường đời đầu tiên (truyện đồng thoại), Ông lão đánh cá và con cá vàng (truyện của Pu-skin), Cô bé bán diêm (truyện của An-đéc-xen).
– Thơ có yếu tố tự sự, miêu tả: Đêm nay Bác không ngủ, Lượm, Gấu con chân vòng kiềng.
– Văn bản nghị luận xã hội: Vì sao chúng ta phải đối xử thân thiện với động vật?, Khan hiếm nước ngọt, Tại sao nên có vật nuôi trong nhà?.
– Truyện ngắn: Bức tranh của em gái tôi, Điều không tính trước, Chích bông ơi!.
– Văn bản thông tin thuật lại sự kiện theo nguyên nhân – kết quả: Phạm Tuyên và ca khúc mừng chiến thắng, Điều gì giúp bóng đá Việt Nam chiến thắng?, Những phát minh “tình cờ và bất ngờ”.
Câu 2. Nêu nội dung chính của các bài đọc hiểu trong sách Ngữ văn 6. tập hai theo mẫu sau:
Lượm (Tế Hữu): Hình ảnh hồn nhiên, dũng cảm của chú bé liên lạc và tỉnh cảm sâu nặng của nhà thơ với chú bé.
Trả lời:
– Bài học đường đời đầu tiên: Kể về chú Dế Mèn kiêu căng, hống hách nhưng biết ân hận trước những việc làm không đúng.
– Ông lão đánh cá và con cá vàng: Truyện về ông lão khốn khổ có người vợ tham lam, độc ác.
– Cô bé bán diêm: Câu chuyện đầy cảm động về em bé tội nghiệp.
– Đêm nay Bác không ngủ: Những chi tiết, hình ảnh chân thật và tình cảm da diết, cảm động về Bác và tình cảm Bác dành cho mọi người.
– Lượm: Hình ảnh hồn nhiên, dũng cảm của chú bé liên lạc và tình cảm sâu nặng của nhà thơ với chú bé.
– Gấu con chân vòng kiềng: Kể chuyện về chú gấu con hồn nhiên, vui nhộn, hài hước, từ tự ti chuyển sang kiêu hãnh về bản thân vì có chân vòng kiềng.
– Vì sao chúng ta phải đối xử thân thiện với động vật?: Sự cần thiết của việc bảo vệ và đối xử nhân đạo với động vật.
– Khan hiếm nước ngọt: Vấn đề nguồn nước đang dần cạn kiệt.
– Tại sao nên có vật nuôi trong nhà?: Lợi ích của vật nuôi.
– Bức tranh của em gái tôi: Kể về người em gái có tấm lòng và tình cảm trong sáng, vô tư dành cho anh trai của mình.
– Điều không tính trước: Kể về ba người bạn nhỏ, ban đầu xích mích vì hiểu lầm, cuối cùng lại kết thành một khối yêu thương.
– Chích bông ơi!: Câu chuyện cảm động của hai cha con Dế Vần trong cách đối xử với chú chim chích bông.
– Phạm Tuyên và ca khúc mừng chiến thắng: Ghi lại quá trình ra đời của bài hát Như có Bác trong ngày đại thắng.
– Điều gì giúp bóng đá Việt Nam chiến thắng?: Nêu lên những nguyên nhân dẫn đến chiến thắng của đội tuyển bóng đá Việt Nam.
– Những phát minh “tình cờ và bất ngờ”: Sự kiện khoa học thú vị về các phát minh.
Câu 3. Nêu những điểm cân chú ý về cách đọc truyện (truyện đồng thoại, truyện của An-đéc-xen và Pu-skin, truyện ngăn); thơ có yếu tố tự sự, miêu tả; văn bản nghị luận và văn bản thông tin.
* Văn bản nghị luận:
– Xác định và đánh giá được ý kiên, lí lẽ và bằng chứng nêu trong văn bản.
– …
Trả lời:
Những điểm cần chú ý về cách đọc:
– Truyện (truyện đồng thoại, truyện của An-đéc-xen và Pu-skin, truyện ngắn): Xác định được một số yếu tố hình thức (nhân vật, cốt truyện, người kể ngôi thứ nhất và ngôi thứ 3, đặc điểm nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật,…), nội dung (đề tài, chủ đề, ý nghĩa,…).
– Thơ có yếu tố tự sự, miêu tả: Xác định được những đặc điểm hình thức (vần, nhịp, biện pháp tu từ, yếu tố tự sự và miêu tả,…), nội dung (đề tài, chủ đề, ý nghĩa,…).
– Văn bản nghị luận: Xác định được một số yếu tố hình thức (ý kiến, lí lẽ, bằng chứng,…), nội dung (đề tài, chủ đề, ý nghĩa,…).
– Văn bản thông tin thuật lại một sự kiện theo nguyên nhân – kết quả: Xác định được một số yếu tố hình thức (nhan đề, bố cục, sa pô, hình ảnh, cách triển khai,…), nội dung (đề tài, vấn đề, ý nghĩa,…).
Câu 4. Thống kê các văn bản văn học (truyện, thơ) đã học ở hai tập sách Ngữ văn 6, từ đó, nhận xét sự khác biệt về đặc điểm hình thức của mỗi thể loại ở hai tập sách
(Gợi ý: Về thể loại thơ, sự khác biệt về đặc điểm hình thức là Ngữ văn 6, tập một tập trung vào thơ lục bát; Ngữ văn 6, tập hai tập trung vào thơ có yếu tố tự sự. miêu tả.).
Trả lời:
*Truyện:
– Ngữ văn 6, tập một: Thánh Gióng, Thạch Sanh, Sự tích Hồ Gươm. → Hướng đến thể loại truyền thuyết, cổ tích.
– Ngữ văn 6, tập hai: Bài học đường đời đầu tiên, Ông lão đánh cá và con cá vàng, Cô bé bán diêm, Bức tranh của em gái tôi, Điều không tính trước, Chích bông ơi!. → Hướng đến truyện đồng thoại và truyện ngắn.
*Thơ:
– Ngữ văn 6, tập một: À ơi tay mẹ, Về thăm mẹ, Ca dao Việt Nam. → Tập trung vào thể loại lục bát.
– Ngữ văn 6, tập hai: Đêm nay bác không ngủ, Lượm, Gấu con chân vòng kiềng. → Tập trung vào thơ có yếu tố tự sự, miêu tả.
Câu 5. Thống kê các văn bản nghị luận và văn bản thông tin đã học ở hai tập sách Ngữ văn 6: từ đó, nhận xét sự khác biệt về nội dung đề tài của mỗi loại văn bản ở hai tập sách (Gợi ý: Sự khác biệt về nội dung để tài của văn bản nghị luận là Ngữ văn 6. tập một hướng dẫn học về nghị luận văn học; Ngữ văn 6, tập hai hướng dẫn học về nghị luận xã hội.).
Trả lời:
* Văn bản nghị luận:
Tập 1:
1. Nguyên Hồng- nhà văn của những người cùng khổ
2. Vẻ đẹp của một bài ca dao
3. Thánh Gióng- tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước
Tập 2:
1. Khan hiếm nước ngọt
2. Tại sao nên có vật nuôi trong nhà?
3. Vì sao chúng ta phải đối xử thân thiện với động vật?
Sự khác biệt:
– Tập 1: Văn bản nghị luận văn học
– Tập 2: Văn bản nghị luận xã hội
* Văn bản thông tin
Tập 1:
1. Hồ Chí Minh và ” Tuyên ngôn Độc lập”
2. ” Diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ”
3. Giờ Trái Đất
Tập 2:
1. Phạm Tuyên và ca khúc mừng chiến thắng
2. Điều gì giúp bóng đá Việt Nam chiến thắng?
3. Những phát minh ” tình cờ và bất ngờ”
Sự khác biệt:
– Tập 1: Sự kiện được thuật lại theo trật tự thời gian.
– Tập 2: Sự kiện được thuật lại theo nguyên nhân – kết quả.
Câu 6. Thống kê tên các kiểu văn bản đã được luyện viết trong sách Ngữ văn 6. tập hai.
Trả lời:
– Viết bài văn kể lại một trải nghiệm đáng nhớ
– Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ có yếu tố tự sự, miêu tả.
– Viết bài văn trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống.
– Viết bài văn tả cảnh sinh hoạt.
– Tóm tắt văn bản thông tin.
– Viết biên bản.
Câu 7. Nêu và chỉ ra mối quan hệ giữa các nội dung đọc hiểu với yêu cầu viết trong các bài ở sách Ngữ văn, tập hai.
Trả lời:
– Viết bài văn kể lại một trải nghiệm đáng nhớ: Liên quan đến phần truyện, phải xác định được nhân vật, cốt truyện, các sự việc tiêu biểu.
– Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ có yếu tố tự sự, miêu tả: Phải nắm rõ được ý nghĩa, cảm xúc, nội dung và nghệ thuật mà bài thơ có yếu tố tự sự, miêu tả mang đến.
– Viết bài văn trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống: Thông qua các văn bản thông tin, cần xác định cách đưa ra lí lẽ, bằng chứng để thuyết phục, bảo vệ ý kiến của mình.
– Tóm tắt văn bản thông tin: Cần nắm rõ sự kiện, cách thuật lại sự kiện ấy để thực hiện bài viết này.
Câu 8. Chỉ ra ý nghĩa và tác dụng của việc tạo lập một văn bản có minh hoạ hình ảnh, bảng biểu, đồ thị…. (văn bản đa phương thức).
Trả lời:
– Ý nghĩa và tác dụng của việc tạo lập một văn bản có minh hoạ hình ảnh, bảng biểu, đồ thị…. (văn bản đa phương thức):
+ Việc tạo lập một văn bản có minh họa hình ảnh, bảng biểu, đồ thị,… (văn bản đa phương thức) sẽ thu hút, hấp dẫn người đọc, giúp họ nắm rõ các thông tin nhanh hơn nhờ có hình ảnh, bảng biểu,…
+ Bên cạnh đó, loại văn bản này đòi hỏi người viết phát huy tính sáng tạo để đem đến một nội dung phù hợp với minh họa.
Câu 9. Nêu các yêu cầu rèn luyện kĩ năng nói và nghe ở sách Ngữ văn 6, tập hai. Các yêu câu này có môi quan hệ thê nào với yêu câu đọc và việt?
Trả lời:
– Các yêu cầu rèn luyện kĩ năng nói và nghe ở sách Ngữ văn 6, tập hai:
+ Kể lại một trải nghiệm đáng nhớ
+ Trình bày ý kiến về một vấn đề
+ Trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống
+ Thảo luận nhóm về một vấn đề trong cuộc sống, nguyên nhân dẫn đến kết quả của một sự việc, sự kiện.
– Các nội dung nói và nghe liên quan đến nội dung đọc hiểu và viết, chỉ khác cách thức thực hiện:
+ Nói là trình bày bằng lới nói (ngôn ngữ nói)
+ Viết là trình bày bằng văn viết (ngôn ngữ viết)
Câu 10. Các nội dung tiếng Việt được học trong sách Ngữ văn 6, tập hai là những nội dung nào?
Trả lời:
– Các nội dung tiếng Việt được học trong sách Ngữ văn 6, tập hai:
Bài 6: Mở rộng chủ ngữ bằng cụm từ.
Bài 7: Biện pháp tu từ hoán dụ
Bài 8: Từ Hán Việt
Bài 9: Trạng ngữ
Bài 10: Dấu ngoặc kép, lựa chọn từ ngữ và cấu trúc câu.
Tự đánh giá cuối học kì 2
Câu 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Tôi sống độc lập từ thuở bé. Ấy là tục lệ lâu đời trong họ nhà dế chúng tôi. Vả lại, mẹ thường bảo chúng tôi rằng: “Phải như thế để các con biết kiếm ăn một mình cho quen đi. Con cái mà cứ nhong nhong ăn bám vào bố mẹ thì chỉ sinh ra tính ở lại, xấu lắm, rồi ra đời không làm nên trò trống gì đâu.”. Bởi thế, lứa sinh nào cũng vậy, đẻ xong là bố mẹ thu xếp cho con cái ra ở riêng. Lứa sinh ấy, chúng tôi có cả thảy ba anh em.
Ba anh em chúng tôi chỉ ở với mẹ ba hôm. Tới hôm thứ ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tếnh, khấp khởi, nửa lo nửa vui theo sau. Mẹ dẫn chúng tôi đi và mẹ đem đặt mỗi đứa vào một cái hang đất ở bờ ruộng phía bên kia, chỗ trông ra đầm nước mà không biết mẹ đã chịu khó đào bới, be đắp tinh tươm thành hang, thành nhà cho chúng tôi từ bao giờ.
Tôi là em út, bé nhất nên được mẹ tôi sau khi dắt vào hang, lại bỏ theo một ít ngọn cỏ non trước cửa, để tôi nếu có bỡ ngỡ, thì đã có ít thức ăn sẵn trong vài ngày.
Rồi mẹ tôi trở về.
Tôi cũng không buồn. Trái lại, còn thấy làm khoan khoái vì được ở một mình nơi thoáng đãng, mát mẻ. Tôi vừa thầm cảm ơn mẹ, vừa sạo sục thăm tất cả các hang mẹ đưa đến ở. Khi đã xem xét cần thận rồi, tôi ra đứng ở ngoài cửa và ngửng mặt lên trời.
Qua những ngọn cỏ ấu nhọn và sắc, tôi thấy màu trời trong xanh. Tôi dọn giọng, vỗ đôi cánh nhỏ tới nách, rồi cao hứng gáy lên mấy tiếng rõ to.
(Trích Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài)
1. Nội dung chính của đoạn trích trên là gì?
Trả lời:
– Nội dung chính của đoạn trích trên là: Đoạn trích viết về loài dế nhưng miêu tả chúng như con người.
2. Trong đoạn trích, người kể theo ngôi thứ mấy?
Trả lời:
– Trong đoạn trích, người kể theo ngôi thứ mấy: Ngôi thứ nhất
3. Chi tiết giúp người đọc nhận ra loài dế?
Trả lời:
– Chi tiết giúp người đọc nhận ra loài dế: Sống trong hang đất ở bờ ruộng; ăn cỏ non
4. Trạng ngữ “Tới hôm thứ ba” trong câu “Tới hôm thứ ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tểnh, khấp khởi, nửa lo nửa vui theo sau.” trả lời cho câu hỏi nào?
Trả lời:
– Trạng ngữ “Tới hôm thứ ba” trong câu “Tới hôm thứ ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tểnh, khấp khởi, nửa lo nửa vui theo sau.” trả lời cho câu hỏi: Khi nào?
5. Tóm tắt nội dung đoạn trích bằng 1 câu văn.
Trả lời:
– Nhân vật “tôi” kể về việc cha mẹ cho ra ở riêng.
6. Tính cách của nhân vật “tôi” trong đoạn trích là gì?
Trả lời:
– Tính cách của nhân vật “tôi” trong đoạn trích là thích sống độc lập.
Câu 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Các loài vật trong tự nhiên không chỉ đơn thuần là các sinh vật vô tri, những khối xương, khối thịt để chúng ta khai thác cạn kiệt. Đó là các sản phẩm tuyệt vời của tự nhiên, sau nhiều triệu năm tiến hoá mới tạo ra được. Chúng góp phần làm cho cuộc sống trở nên phong phú hơn. Hãy thử tưởng tượng, một ngày chúng ta uống một lon bia Tai-gơ (Tiger) in hình con hổ mà không biết con hổ thực như thế nào. Đứa con yêu mến của bạn tô màu trên bức tranh loài tê giác mà thực tế chúng không bao giờ có cơ hội được nhìn thấy ngoài đời thực.
Quan trọng không kém, bảo tồn các loài động vật hoang dã, quý hiếm còn để duy trì sự cân bằng của sinh thái. Tự nhiên vốn có các quy luật tồn tại và vận hành, để đảm bảo các hệ sinh thái là những hệ thống hoàn chỉnh. Chu trình này hỗ trợ chu trình kia. Sự có mặt của loài này trợ giúp hoặc kìm hãm loài kia nhằm đảm bảo sự cân bằng tối ưu. Khi một loài bị tiêu diệt, có thể sẽ kéo theo sự mất cân bằng, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ cục bộ cho đến tất cả các hệ sinh thái và cuối cùng là cả Trái Đất.
Khi các hệ sinh thái mất cân bằng, con người đương nhiên sẽ gánh chịu mọi hậu quả.
Đến đây, chúng ta có thể phần nào nhận thấy lí do vì sao phải thực hiện các biện pháp bảo tồn các loài động vật quý hiếm.
(Theo Nam Nguyễn – vnexpress.net)
1. Vì sao đoạn trích trên là văn bản nghị luận?
Trả lời:
– Đoạn trích trên là văn bản nghị luận: Vì đoạn trích nêu lên các lí do nhằm thuyết phục mọi người bảo vệ động vật hoang dã.
2. Câu nào sau đây có chủ ngữ được mở rộng?
– Đó là các sản phẩm tuyệt vời của tự nhiên.
– Chúng góp phần làm cho cuộc sống trở nên phong phú hơn.
– Đứa con yêu mến của bạn tô màu trên bức tranh loài tê giác.
– Tự nhiên vốn có các quy luật tồn tại và vận hành.
Trả lời:
– Câu có chủ ngữ được mở rộng: Đứa con yêu mến của bạn tô màu trên bức tranh loài tê giác.
3. Đoạn trích trên nêu lên mấy lí do cần bảo vệ động vật hoang dã? Liệt kê các lí do mà em đã xác định, mỗi lí do trình bày trong một câu văn ngắn gọn.
Trả lời:
– Đoạn trích trên nêu lên 2 lí do cần bảo vệ động vật hoang dã
– Liệt kê các lí do mà em đã xác định:
+ Các loài vật trong tự nhiên góp phần làm phong phú cuộc sống.
+ Các loài vật giúp duy trì cân bằng sinh thái.
Câu 3: Viết thành bài văn ngắn (khoảng 2 trang) giới thiệu một nhân vật có tấm lòng nhân hậu trong các văn bản truyện đã học ở sách Ngữ văn 6, tập hai và nêu lí do vì sao em thích nhân vật này.
Trả lời:
Trong các văn bản truyện đã được học, tôi thích nhất là nhân vật Kiều Phương trong Bức tranh của em gái tôi của nhà văn Tạ Duy Anh. Kiều Phương là một cô bé vừa tài năng lại vừa có tấm lòng nhân hậu.
Nhân hậu là lòng thương người và ăn ở có tình nghĩa. Nhân hậu cũng hàm chứa trong đó cả sự bao dung những lỗi lầm của người khác. Điều này được thể hiện rất rõ ở nhân vật Kiều Phương.
Kiều Phương là một cô bé tinh nghịch, có năng khiếu vẽ. Trước đây, cả nhà không ai biết điều này. Người anh của Kiều Phương cũng chỉ cho cô là đứa trẻ tinh nghịch, đáng yêu. Cho đến một ngày, khi chú Tiến Lê – một họa sĩ đến nhà Kiều Phương chơi và phát hiện ra những bức tranh của cô bé, cả nhà mới biết năng khiếu này và vun đắp nó. Người anh bắt đầu cảm thấy mình vô dụng, không giỏi bằng em gái mình. Từ đó nảy sinh ra lòng ghen ghét em, và hay cáu kỉnh. Vậy nhưng Kiều Phương cũng Không nói gì anh trai mình, mặt chỉ phụng phịu, vẫn luôn đáng yêu, tinh nghịch.
Đến ngày Kiều Phương đi thi vẽ quốc tế, cô bé đã cố gắng nhìn và nhớ gương mặt của người anh khiến người anh càng khó chịu, không hiểu được chuyện gì. Cho đến khi cô bé thì thầm với người anh: “Em muốn anh cùng đi nhận giải” thì người anh mới biết được bức tranh giải nhất của Kiều Phương là bản thân mình – người anh trai. Câu nói của Kiều Phương chính là để dành cho người anh một bất ngờ. Cô bé hẳn đã thấy những biểu hiện không vui của người anh, có thể mơ hồ đoán được, nhưng vẫn yêu thương anh, tặng anh một món quà đặc biệt. Đó thực là một sự nhân hậu đáng khen.
Khi nhìn vào bức tranh, người anh ngỡ ngàng vì không ngờ mình vẫn luôn mắng mỏ em gái mà vẫn được em gái vẽ. Người anh hãnh diện vì bức tranh vẽ mình đã đoạt giải nhất. Nhưng ngay sau đó, người anh lại cảm thấy xấu hổ vì tất cả những điều ấy. Xấu hổ vì đã hãnh diện. Xấu hổ vì không xứng đáng hãnh diện. Xấu hổ về sự hẹp hòi của mình, vì vẫn luôn cáu gắt với Kiều Phương. Trong khi đó, cô bé vẫn luôn yêu thương, nhân hậu với người anh. Trong văn bản truyện, nhà văn Tạ Duy Anh không miêu tả nội tâm của nhân vật Kiều Phương mà chủ yếu miêu tả nội tâm của người anh trai. Nhưng chúng ta có thể đoán rằng, Kiều Phương cũng sẽ cảm nhận được những cảm xúc của anh trai mình, hiểu cho anh trai và thể hiện tình cảm với anh. Đó chính là sự nhân hậu của cô bé. Chính sự nhân hậu đó đã cảm hóa người anh, không những làm người anh cảm động, mà còn giúp người anh tự nhìn nhận khuyết điểm của bản thân, biết khiêm tốn và yêu thương em gái mình. Ở cuối truyện ngắn, người anh đã nói về bức tranh: “Không phải con đâu! Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy!”. Câu nói cho thấy cảm xúc và suy nghĩ của người anh không còn là sự hãnh diện phút ban đầu, mà là sự hiểu chuyện, khiêm nhường. Câu nói ấy đã khẳng định “tâm hồn và lòng nhân hậu” của Kiều Phương.
Đã có người nói “văn học là nhân học”, văn học đề cao những giá trị tốt đẹp ở con người. Một trong những giá trị ấy chính là lòng nhân hậu. Nhân vật Kiều Phương trong Bức tranh của em gái tôi của Tạ Duy Anh chính là biểu hiện cho lòng nhân hậu đó. Lòng nhân hậu của Kiều Phương nhắc nhở chúng ta về cách nghĩ, cách ứng xử trong đời sống hàng ngày.
Câu 4: Có ý kiến cho rằng việc nuôi chó, mèo trong nhà không những không có tác dụng gì mà còn mất vệ sinh, thậm chí có khi nguy hiểm. Em có tán thành suy nghĩ này không? Hãy nêu ý kiến của em và đưa ra các lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ ý kiến ấy bằng bài văn ngắn (khoảng 2 trang)
Trả lời:
Những bạn nhỏ luôn thích nuôi một chú chó hay một chú mèo trong nhà. Bởi đó là những loài vật dễ thương, có thể bầu bạn với con người. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc nuôi chó, mèo trong nhà không những không có tác dụng gì mà còn mất vệ sinh, thậm chí có khi nguy hiểm. Đây là ý kiến thú vị để chúng ta cùng bàn luận.
Chó, mèo là những loài vật vừa có trong thiên nhiên hoang dã, vừa có trong các hộ gia đình. Những chú chó, mèo được nuôi trong gia đình vẫn thường được biết đến với cái tên: chó nhà, mèo nhà. Chúng không phải là chó dại, mèo dại hay chó hoang, mèo hoang. Chúng là những chú mèo, chú chó đã được thuần hóa, được nuôi dưỡng, sinh hoạt với đời sống của con người.
Việc nuôi chó, mèo có thể gây nguy hiểm như trong quan điểm đã đề cập có lẽ xuất phát từ những bài báo đưa tin về các vụ vật nuôi tấn công con người. Quả thực đây là những điều đáng tiếc. Tuy nhiên, nó không đủ lý lẽ để nói rằng không nên nuôi chó mèo. Bởi, chó mèo nếu được nuôi dưỡng tốt và nhận được đầy đủ tình thương sẽ không bao giờ tấn công con người. Chúng ta có những biện pháp tiêm chủng, chích ngừa cho vật nuôi để tránh chúng bị dại. Chúng ta cũng cần có những biện pháp bảo hộ con người, quy định về việc thả chó, mèo ra ngoài đường như thế nào cho hợp lí. Như vậy, hoàn toàn có thể tránh khỏi những nguy hiểm.
Chó, mèo ở Việt Nam trước nay vẫn được xem như những con vật có ích. Chó là người bạn trung thành của con người. Chúng giúp con người bảo vệ ngôi nhà. Mèo lại giúp bắt chuột, tránh phá hoại đồng áng. Không phải tự nhiên mà ở các vùng quê, người ta vẫn thường nuôi những vật nuôi này. Như vậy, nuôi chó, mèo có tác dụng rất lớn với con người, nhất là người Việt Nam. Điều này đã phủ nhận ý kiến nuôi chúng là “không có tác dụng gì”.
Nuôi chó, mèo sẽ mất vệ sinh nếu như người nuôi không biết cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. Chúng ta phải chấp nhận sự thật rằng chó, mèo sẽ mãi là “những đứa trẻ”, chúng sẽ không bao giờ lớn. Giữ gìn vệ sinh sẽ là một thách thức cần phải vượt qua đối với những ai có ý định nuôi chúng. Khi chấp nhận nuôi một chú chó hay mèo, người nuôi sẽ phải tìm hiểu về tập tính cũng như ngôn ngữ của chúng. Người nuôi sẽ biết quan tâm, chăm sóc, và yêu thương những vật, những người xung quanh mình.
Khi tìm hiểu tập tính và ngôn ngữ của chó, mèo, ta buộc phải chăm sóc chúng một cách cẩn thận, chu đáo. Ta sẽ phải dẫn chúng ra ngoài trời nhiều vì chúng vốn là loài có tập tính săn bắt. Con người sẽ có cơ hội để vận động và nâng cao sức khỏe.
Chó, mèo nếu là thú cưng thì sao? Chúng cũng cho ta những giá trị riêng. Thú cưng đều làm cho cảm xúc của chúng ta tích cực hơn. Chúng có thể lắng nghe ta vô điều kiện mà không phán xét. Chúng cũng có thể cho ta những cái ôm đầy tình cảm. Chúng sẽ trở thành người bạn đặc biệt của ta – người bạn không phải… loài người! Điều đó thú vị biết bao. Chính sự gắn bó giữa ta với “người bạn” ấy sẽ khiến ta rất buồn nếu “bạn” chẳng may phải rời xa ta. Nhưng đó không nên là lí do để không có một “người bạn”. Việc trân trọng những khoảnh khắc bên cạnh vật nuôi giúp ta biết trân trọng những khoảnh khắc và những người trong cuộc sống hàng ngày.
Như vậy, có thể thấy, việc có chó, mèo trong nhà sẽ đòi hỏi con người rất nhiều về thời gian, công sức. Có thể đó sẽ là khó khăn khiến người ta nghĩ rằng không nên có những loài vật ấy trong nhà. Nhưng đó cũng có thể sẽ trở thành một cơ hội để ta có những trải nghiệm thú vị, để ta có những người bạn, để ta… có những người bạn không phải con người và để ta phát triển bản thân. Tôi cho rằng, việc nuôi chó, mèo trong nhà có rất nhiều tác dụng. Còn việc mất vệ sinh và nguy hiểm hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chủ nhân của chúng.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung giải trí học tập và các kiến thức thú vị khác tại đây.