Soạn bài Tôi có một ước mơ SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức – chi tiết

Văn bản khẳng định quyền bình đẳng của người da đen, đồng thời là lời kêu gọi sự đấu tranh giành quyền bình đẳng cho người da đen

Nội dung chính

Văn bản khẳng định quyền bình đẳng của người da đen, đồng thời là lời kêu gọi sự đấu tranh giành quyền bình đẳng cho người da đen.

Trước khi đọc 1

Câu 1 (trang 79, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Trong lịch sử của dân tộc, có những trường hợp một văn kiện chính trị lại trở thành một áng văn chương có sức lay động lớn. Bạn hãy kể tên một vài tác phẩm như vậy.

Phương pháp giải:

Dựa vào hiểu biết của bản thân để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Trong lịch sử dân tộc, có những trường hợp một văn kiện chính trị lại trở thành một áng văn chương có sức lay động lớn như Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ, Chiếu dời đô, Cầu hiền chiếu…

Trong lịch sử của dân tộc, có những trường hợp một văn kiện chính trị lại trở thành một áng văn chương có sức lay động lớn. Một vài tác phẩm như:

– Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh

– Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Vũ Khoan

– Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục – Hồ Chí Minh

Trước khi đọc 2

Câu 2 (trang 79, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Nhiều nhân vật lịch sử đã thể hiện niềm ước mơ về hạnh phúc cho nhân dân, bình yên cho đất nước trong những câu thơ, câu văn hoặc những lời phát biểu đầy tâm huyết. Bạn hãy nêu một ví dụ cụ thể để chứng minh ý kiến trên.

Phương pháp giải:

Dựa vào kiến thức của bản thân để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bài cáo nhằm bố cáo tới toàn thiên hạ rằng cuộc kháng chiến chống Minh của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, từ nay nước ta chấm dứt chiến tranh, bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, hứa hẹn sẽ đem đến một cuộc sống ấm no cho nhân dân. Bài cáo không chỉ vạch ra tội ác của giặc Minh, khẳng định cuộc kháng chiến bảo vệ bờ cõi của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn mà còn thể hiện khát vọng, nỗi niềm mong muốn được độc lập, tự do cho nhân dân của một vị quan mang nặng tấm lòng vì dân, vì nước.

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bài cáo nhằm bố cáo tới toàn thiên hạ rằng cuộc kháng chiến chống Minh của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, từ nay nước ta chấm dứt chiến tranh, bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, hứa hẹn sẽ đem đến một cuộc sống ấm no cho nhân dân.

Ví dụ cụ thể về câu nói của nhân vật lịch sử thể hiện niềm ước mơ về hạnh phúc cho nhân dân, bình yên cho đất nước trong những câu thơ, câu văn hoặc những lời phát biểu đầy tâm huyết:

“…Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!” (Hồ Chí Minh – Tuyên ngôn độc lập).

Trong khi đọc 1

Câu 1 (trang 80, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Xác định mục đích hướng tới của tác giả ở bài diễn văn này.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn mở đầu của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Mục đích hướng tới của tác giả ở bài diễn văn này là lan tỏa sự nhận thức về tầm quan trọng của tự do đến mọi người.

Mục đích: Cuộc biểu tình cho tự do như là một sự kiện tuyệt vời nhất sẽ đi vào lịch sử.

Trong khi đọc 2

Câu 2 (trang 80, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Ý nghĩa của việc dẫn ra văn kiện lịch sử nổi tiếng của nước Mỹ là gì?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 2 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

 

Ý nghĩa của việc dẫn ra văn kiện lịch sử nổi tiếng nước Mỹ: đây là một minh chứng, bằng chứng sống về sự giải phóng nô lệ đã xảy ra cách đây một thế kỷ, nó đánh dấu kỷ nguyên được giải phóng của người da đen, họ đã được công nhận quyền bình đẳng cách đây hàng trăm năm nhưng sự thật thì ngược lại.

– Thể hiện sự tôn trọng sắc lệnh của Mỹ

– Dùng cách lập luận gậy ông đập lưng ông để đấu tranh cho tự do của những người da đen.

– Thể hiện khát vọng tự do, bình đẳng của những người da đen.

Trong khi đọc 3

Câu 3 (trang 80, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Theo dõi cách tác giả nói về thời điểm cần thiết để đòi công lí.  

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 4 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Tác giả đánh thẳng vào tâm lí của tư bản đó là luôn chậm trễ trong việc đưa ra quyền tự do bằng những lời xoa dịu xa xỉ, ông nhấn mạnh “Ngay Bây Giờ” quyền công lí ấy cần phải được thực hiện bằng hành động cụ thể, phải thấy được kết quả thực tế.

Ông nhấn mạnh “Ngay Bây Giờ” quyền công lí ấy cần phải được thực hiện bằng hành động cụ thể, phải thấy được kết quả thực tế.

Thời điểm cần thiết để đòi công lý: Ngay bây giờ.

Trong khi đọc 4

Câu 4 (trang 81, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý quan điểm đấu tranh của tác giả.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 5 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Quan điểm đấu tranh của tác giả được thể hiện rất rõ ràng. Đó phải là một cuộc đấu tranh chính trị xuất phát từ lòng tự trọng thanh cao, tránh để những thù hận và sự thỏa mãn cá nhân chiếm lấy tâm hồn mà biến cuộc đấu tranh trở thành bạo lực, đem đến đau thương, mất mát. Theo ông, đấu tranh đòi quyền bình đẳng của người da đen phải tiến lên uy nghi với cả sức mạnh vật chất và tâm hồn chứ không phải là cuộc chiến tranh vũ trang phi nghĩa đầy đau thương.

Quan điểm: Đó phải là một cuộc đấu tranh chính trị xuất phát từ lòng tự trọng thanh cao, tránh để những thù hận và sự thỏa mãn cá nhân chiếm lấy tâm hồn mà biến cuộc đấu tranh trở thành bạo lực, đem đến đau thương, mất mát.

Quan điểm đấu tranh của tác giả: Đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát tự do bằng những chén hận thù và cay đắng. Chúng ta phải luôn luôn tranh đấu với nguyên tắc và lòng tự trọng cao. Chúng ta không được phép để cuộc phản kháng sáng tạo của chúng ta nhuốm màu bạo lực. Chúng ta phải tiến lên uy nghi với cả sức mạnh vật chất và tâm hồn.

Trong khi đọc 5

Câu 5 (trang 81, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Qua cách diễn đạt và đưa ra bằng chứng, tác giả đã thể hiện thái độ và tình cảm của mình như thế nào?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 8 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Qua cách diễn đạt và đưa ra bằng chứng, tác giả đã thể hiện niềm khát khao, cháy bỏng được tự do, được bình đẳng với người da trắng của mình. Bởi một dân tộc đã bị coi là nô lệ suốt mấy thế kỷ, giờ đây khi sự tự do, giải phóng con người đang cận kề, khát khao ấy càng trở lên cháy bỏng, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Những dẫn chứng tưởng chừng như rất nhỏ nhưng đó lại chính là nỗi đau, hiện thực phũ phàng mà người da đen đang phải gánh chịu, nó tưởng chừng như rất nhỏ nhưng lại chính là nỗi đau, sự tổn thương trong tâm hồn của họ.

Tác giả đã thể hiện niềm khát khao, cháy bỏng được tự do, được bình đẳng với người da trắng của mình.

Thái độ và tình cảm của tác giả: Sự phẫn nộ và tinh thần đấu tranh của tác giả trước những sự việc người da đen bị phân biệt đối xử. Từ đó, tác giả thể hiện niềm mong ước tự do bình đẳng cho người da đen.

Trong khi đọc 6

Câu 6 (trang 82, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả khi thể hiện niềm tin và ước mơ.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 9 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả được đẩy lên cao trào bằng hàng loạt những lý lẽ thực tế tái hiện thực cảnh của người da đen hiện tại, họ vẫn phải sống trong khổ đau, đầy đọa và tuyệt vọng. Tác giả muốn đẩy lùi “bóng ma” đó bên trong con người họ bằng những lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và khát khao cháy bỏng của mình qua câu “Tôi có một ước mơ”. Câu nói ấy cứ lặp đi lặp lại một cách tha thiết, cháy bỏng trong bài diễn văn của ông.

Ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả được đẩy lên cao trào bằng hàng loạt những lý lẽ thực tế tái hiện thực cảnh của người da đen hiện tại. Tác giả muốn đẩy lùi “bóng ma” đó bên trong con người họ bằng những lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và khát khao cháy bỏng của mình qua câu “Tôi có một ước mơ”.

Ngôn ngữ và giọng điệu: sử dụng những hình ảnh, câu văn có sức truyền cảm; lập luận chặt chẽ, thuyết phục.

Trong khi đọc 7

Câu 7 (trang 82, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng nhằm tác động mạnh đến người đọc, người nghe?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn 10, 11, 12 của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…” và đằng sau đó chính là những tưởng tượng của tác giả về một thế giới khi mà công lý và sự tự do đã được thi hành, con người chung sống bình đẳng, hạnh phúc. Chế độ nô lệ bị xóa bỏ hoàn toàn, con người được tự do cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc đưa ra những lời dự đoán như vậy nhằm tiếp thêm sức mạnh, động lực đấu tranh đến người nghe, đưa họ chìm đắm vào thế giới tự do mà tác giả tạo ra – đó là cái mà họ muốn, khát khao và cháy bỏng. Từ đó, thúc đẩy họ đấu tranh để biến giấc mơ ấy thành hiện thực, biến ngày ấy thành sự thật.

Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…” và đằng sau đó chính là những tưởng tượng của tác giả về một thế giới khi mà công lý và sự tự do đã được thi hành, con người chung sống bình đẳng, hạnh phúc.

Biện pháp điệp ngữ: Tôi mơ rằng.

Trong khi đọc 8

Câu 8 (trang 83, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Bạn có ấn tượng, cảm xúc gì về đoạn kết?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn cuối của tác phẩm và đưa ra đánh giá.

Lời giải chi tiết:

Đoạn kết như tổng kết lại kết quả của quá trình đấu tranh đòi tự do. Con người được giải phóng, được bình đẳng bất kể màu da, dân tộc hay tôn giáo nào. Tác giả như đang ăn mừng cùng toàn thể người dân da đen qua từng lời văn, câu hát về sự tự do, bình đẳng. Nó thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc tột độ của con người khi được giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ đeo bám biết bao thế kỷ. Niềm vui sướng ấy hòa với tiếng ca ngân vang của những người khốn khổ, dù họ không biết trước tương lai như thế nào nhưng sự tự do đã khiến họ quên đi thực tại bởi nó lớn hơn hẳn những nỗi lo về cơm áo mà không ngần ngại hòa chung với niềm vui sướng của cả dân tộc.

Đoạn kết như tổng kết lại kết quả của quá trình đấu tranh đòi tự do. Tác giả như đang ăn mừng cùng toàn thể người dân da đen qua từng lời văn, câu hát về sự tự do, bình đẳng. Nó thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc tột độ của con người khi được giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ đeo bám biết bao thế kỷ.

Đoạn kết đã khẳng định lại quan điểm của Mác-tin Lu-thơ Kinh là người da đen được đối xử bình đẳng với người da trắng. Tác giả dẫn ra câu hát “Tự do cuối cùng đã đến! Tự do cuối cùng đã đến! Tạ ơn Đức Chúa Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, cuối cùng chúng ta đã được tự do!” để thể hiện ước mơ về quyền bình đẳng của người da đen.

Sau khi đọc 1

Câu 1 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Vấn đề trọng tâm được đề cập ở văn bản Tôi có một ước mơ là gì?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ tác phẩm, chú ý đến mục đích của bài viết.

Lời giải chi tiết:

Vấn đề trọng tâm được đề cập trong văn bản Tôi có một ước mơ là niềm khao khát có được sự tự do, bình đẳng của người da đen với người da trắng được thể hiện rõ nét qua cụm từ “tôi có một ước mơ” được lặp đi lặp lại trong bài diễn văn.

Vấn đề trọng tâm được đề cập trong văn bản Tôi có một ước mơ là niềm khao khát có được sự tự do, bình đẳng của người da đen với người da trắng

Vấn đề trọng tâm được đề cập ở văn bản Tôi có một ước mơ: khẳng định quyền bình đẳng của người da đen và kêu gọi sự đấu tranh giành quyền bình đẳng cho người da đen.

Sau khi đọc 2

Câu 2 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chỉ ra các luận điểm được tác giả triển khai trong văn bản.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ tác phẩm để trả lời câu hỏi này

Lời giải chi tiết:

Các luận điểm được tác giả triển khai trong văn bản là:

– Lý do cho sự hiện diện của bài diễn văn ngày hôm nay.

– Quan điểm của tác giả về việc thực hiện quyền tự do, bình đẳng cho người da màu.

– Khẳng định quan điểm đấu tranh của mình

– Khát khao cháy bỏng mong muốn được tự do, bình đẳng của tác giả

– Tiếng hát trong niềm vui chiến thắng

Các luận điểm được tác giả triển khai trong văn bản:

– Cần lên tiếng về thảm trạng người da đen bị đối xử bất công.

– Trong quá trình chiến đấu giành lại địa vị xứng đáng của mình, những người đấu tranh không được phép hành động sai lầm.

– Chỉ khi người da đen được đối xử bình đẳng thì cuộc đấu tranh mới dừng lại.

Sau khi đọc 3

Câu 3 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Phân tích cách tác giả dùng lí lẽ và bằng chứng để trình bày quan điểm của mình nhằm thuyết phục người nghe, người đọc.

Phương pháp giải:

Đọc tác phẩm, chú ý vào những dẫn chứng, lý lẽ được nêu ra trong bài.

Lời giải chi tiết:

 

Sức thuyết phục của văn bản được thể hiện qua hệ thống lý lẽ, bằng chứng gần gũi nhưng hết sức thuyết phục được tác giả sử dụng trong bài:

– Bằng chứng: ông đưa ra bản “Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ” đã được ký kết cách đây một thế kỷ. Đây là bằng chứng đanh thép thể hiện quyền tự do, bình đẳng của người da màu đáng lý đã có từ rất lâu và nó đã phải được thực hiện.

– Lý lẽ:

+ Nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do.

+ … người da đen vẫn phải sống cô đơn trên hòn đảo nghèo đói giữa một đại dương mênh mông thịnh vượng về vật chất.

+ người da đen vẫn gầy mòn trong những ngóc ngách của xã hội Mỹ…

→ Hiện thực tại nước Mỹ, người da đen vẫn chưa được giải phóng dù đã ký sắc lệnh hàng trăm năm trước.

+ … nhắc nhở nước Mỹ về tính cấp bách của thời khắc Ngay Bây Giờ.

+ Đây là lúc chân thật hóa những lời hứa dân chủ.

+ Đây là lúc chúng ta giải thoát khỏi bóng đêm và cái thung lũng hoang tàn của sự phân biệt chủng tộc…

→ Nhấn mạnh thời cơ giải phóng tự do đã đến, kêu gọi chính quyền từ hai phía đấu tranh vì tự do và bình đẳng.

+ Tôi mơ rằng… con cháu của những người nô lệ và chủ nô có thể ngồi bên nhau quanh chiếc bàn của tình huynh đệ

+ Tôi mơ rằng một ngày kia, dù bang Mit-xi-xi-pi ngột ngạt bởi cái nóng của sự bất công và đàn áp cũng sẽ biến thành ốc đảo của tự do và công lí.

+ Tôi mơ rằng sẽ có một ngày bốn đứa con nhỏ của mình được sống trong một quốc gia, nơi chúng không bị đánh giá bởi màu da mà bởi phẩm cách của chúng.

→ Không còn là một ước mơ mơ hồ, tác giả đã cụ thể hóa giấc mơ của mình dựa trên một tương lai tươi sáng – nơi những người da màu được giải phóng, có cuộc sống bình đẳng, hoàn thuận với các dân tộc khác.

+ Từ bất cứ triền núi nào, hãy để tự do ngân vang!

+ Và khi điều đó xảy ra, khi chúng ta chịu để cho tự do ngân vang, từ mọi ngôi làng và thôn xóm… chúng ta đã được tự do!”

→ Cuộc đấu tranh sẽ đến hồi kết, người da màu sẽ giành được quyền tự do, bình đẳng như trong lời ca tiếng hát của đoạn kết tác phẩm. Đây như một sự khẳng định, tổng kết lại toàn bộ tác phẩm.

 – Bằng chứng: ông đưa ra bản “Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ” đã được ký kết cách đây một thế kỷ.

– Lý lẽ:

+ Nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do.

+ … người da đen vẫn phải sống cô đơn trên hòn đảo nghèo đói giữa một đại dương mênh mông thịnh vượng về vật chất.

+ người da đen vẫn gầy mòn trong những ngóc ngách của xã hội Mỹ…

+ … nhắc nhở nước Mỹ về tính cấp bách của thời khắc Ngay Bây Giờ.

+ Đây là lúc chân thật hóa những lời hứa dân chủ.

+ Đây là lúc chúng ta giải thoát khỏi bóng đêm và cái thung lũng hoang tàn của sự phân biệt chủng tộc…

+ Tôi mơ rằng… con cháu của những người nô lệ và chủ nô có thể ngồi bên nhau quanh chiếc bàn của tình huynh đệ

+ Tôi mơ rằng một ngày kia, dù bang Mit-xi-xi-pi ngột ngạt bởi cái nóng của sự bất công và đàn áp cũng sẽ biến thành ốc đảo của tự do và công lí.

+ Tôi mơ rằng sẽ có một ngày bốn đứa con nhỏ của mình được sống trong một quốc gia, nơi chúng không bị đánh giá bởi màu da mà bởi phẩm cách của chúng.

+ Từ bất cứ triền núi nào, hãy để tự do ngân vang!

+ Và khi điều đó xảy ra, khi chúng ta chịu để cho tự do ngân vang, từ mọi ngôi làng và thôn xóm… chúng ta đã được tự do!”

Những lí lẽ và bằng chứng tác giả sử dụng để trình bày quan điểm của mình được trình bày sắp xếp theo thứ tự của một quá trình đấu tranh, mang tính liên kết cao.

Lí lẽ

Bằng chứng

– Một trăm năm trước, Lin-cơn đã ký bản Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ.

– Nhưng một trăm năm sau người da đen vẫn chưa được tự do.

Người da đen vẫn bị thít chặt trong gông cùm của luật cách li và xiềng xích của óc kì thị, vẫn phải sống trong một hoang đảo nghèo đói giữa đại dương bao la của sự phồn thịnh vật chất và vẫn phải sống mòn trong những góc khuất của xã hội Mỹ, thấy mình chỉ là kẻ lưu vong ngay trên quê hương mình
– Không được để cho cuộc phản kháng đầy sáng tạo sa vào bạo loạn.

– Tinh thần chiến đấu quật cường mới vừa trào sôi trong cộng đồng người da đen không được đẩy đến chỗ ngờ vực tất cả người da trắng.

Có rất nhiều người da trắng đã nhận ra vận mệnh của họ gắn liền với vận mệnh của người da đen, rằng tự do của họ không thể tách rời với tự so của người da đen.
Giấc mơ bắt nguồn sâu thẳm trừ trong giấc mơ của nước Mỹ (niềm tin rằng nước Mỹ luôn tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, bất kể xuất thân, hoàn cảnh, địa vị xã hội,… Không bao giờ hài lòng khi:

– Người da đen vẫn còn là những nạn nhân câm lặng của vấn nạn bạo lực từ cảnh sát.

– Sau chặng đường dài mệt mỏi, không thể tìm được chốn nghỉ chân trong quán trọ ven xa lộ hay khách sạn trong thành phố.

– Con cái người da đen bị tước đoạt nhân phẩm và lòng tự trọng bởi những tấm biển đề “Chỉ dành cho người da trắng”.

– Người da đen ở Mi-xi-xi-pi không có quyền bầu cử, người da đen ở Niu Oóc tin rằng đi bà cũng chẳng để làm gì.

Sau khi đọc 4

Câu 4 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ gì? Hình ảnh “tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi” có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của tác giả?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn kết của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ về sự thành công của cuộc đấu tranh, người da màu được giải phóng, tự do và bình đẳng với những dân tộc khác.

Hình ảnh ”tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi” thể hiện quyền tự do, bình đẳng ấy của người da màu đã được nhân rộng theo chiều không gian địa lý. Làn sóng ấy cứ vậy mà nối tiếp nhau đến tận những vùng xa xôi kia, giải phóng cho cuộc sống đầy đau khổ của người da màu. Mong muốn của họ đã thành hiện thực, lời thỉnh cầu của họ đã được chúa lắng nghe và đáp lại. Còn niềm vui nào là to lớn hơn, mạnh mẽ hơn niềm vui tự do, bình đẳng này.

Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ về sự thành công của cuộc đấu tranh, người da màu được giải phóng, tự do và bình đẳng với những dân tộc khác.

Hình ảnh ”tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi” thể hiện quyền tự do, bình đẳng ấy của người da màu đã được nhân rộng theo chiều không gian địa lý. Từ đó thể hiện niềm tự hào, vui sướng của tác giả.

– Trong đoạn kết của văn bản, tác giả đã bộc lộ ước mơ về sự tự do và bình đẳng.

– Hình ảnh “tự do ngân vang từ những đỉnh đồi, […] ngọn núi” có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của tác giả. Tác giả tin rằng nước Mỹ luôn tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, bất kể xuất thân, hoàn cảnh, địa vị xã hội,…

Sau khi đọc 5

Câu 5 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ (điệp ngữ, ẩn dụ,.) đã được tác giả sử dụng.

Phương pháp giải:

Chú ý vào những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng.

Lời giải chi tiết:

– Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…”, điệp từ “Tôi có một ước mơ”.

→ Thể hiện một niềm khát khao cháy bỏng, ước muốn tột cùng của tác giả về sự tự do, bình đẳng cho người da màu.

– Biện pháp tu từ ẩn dụ: “Đây là lúc chúng ta thoát khỏi bóng đêm và cái thung lũng hoang tàn…”, “mang đất nước ra khỏi vùng cát lún của sự bất công…”, “mùa hè ngột ngạt của người da đen”, “khi có làn gió thu của tự do và bình đẳng mát mẻ thổi đến”…

→ Tất cả những hình ảnh đó không chỉ cho thấy sự khổ đau, bất công của người da màu khi hứng chịu sự phân biệt chủng tộc mà còn thể hiện niềm khao khát được giải phóng của người da màu. Họ tha thiết cần sự tự do, bình đẳng, cần quyền được sống, mưu cầu hạnh phúc như dân tộc khác bởi họ cũng là con người và con người khi sinh ra đều có quyền bình đẳng. Họ chỉ đang đòi lại cái vốn có, vốn thuộc về họ, khơi dậy sự đồng cảm của người dân Mỹ.

– Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…”, điệp từ “Tôi có một ước mơ”.

→ Thể hiện một niềm khát khao cháy bỏng, ước muốn tột cùng của tác giả về sự tự do, bình đẳng cho người da màu.

– Biện pháp tu từ ẩn dụ: “Đây là lúc chúng ta thoát khỏi bóng đêm và cái thung lũng hoang tàn…”, “mang đất nước ra khỏi vùng cát lún của sự bất công…”, “mùa hè ngột ngạt của người da đen”, “khi có làn gió thu của tự do và bình đẳng mát mẻ thổi đến”…

→ Không chỉ cho thấy sự khổ đau, bất công của người da màu khi hứng chịu sự phân biệt chủng tộc mà còn thể hiện niềm khao khát được giải phóng của người da màu.

– Biện pháp điệp ngữ: Tôi có một ước mơ, Chúng ta, Đây là lúc…

– Biện pháp ẩn dụ: Thoát khỏi bóng đêm và thung lũng hoang tàn của sự phân biệt chủng tộc, con đường chan hòa ánh nắng của sự bình đẳng về chủng tộc, vùng cát lún của sự bất công,…

→ Tác dụng: Biện pháp tu từ giúp nhấn mạnh thái độ và tình cảm của tác trước những sự việc người da đen bị đối xử phân biệt, bất công. Từ đó bày tỏ ước mơ về tự do và nhân quyền trước công chúng của tác giả, kêu gọi quyền bình đẳng cho những người da đen. Đồng thời làm tăng sức biểu đạt cho câu văn.

Sau khi đọc 6

Câu 6 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Nhận xét về thái độ, tình cảm của tác giả đối với nước Mỹ qua văn bản.

Phương pháp giải:

Chú ý vào những câu từ thể hiện thái độ của tác giả đối với nước Mỹ.

Lời giải chi tiết:

 

Đối với tác giả, Mỹ vẫn là một đất nước tốt đẹp bởi ông gắn giấc mơ của mình với giấc mơ của nước Mỹ. Ông hy vọng chính quyền người da trắng có thể hiểu và đáp lại lời nguyện cầu của ông. Ông tin tưởng vào sự nhận thức, hiểu đạo lý của chính quyền da trắng sẽ giúp người da đen thoát khỏi bể khổ. Đó là sự tôn trọng, đức tin chảy trong người ông về một đất nước đã cưu mang hàng trăm, hàng triệu đồng bào người da màu của ông.

Đối với tác giả, Mỹ vẫn là một đất nước tốt đẹp bởi ông gắn giấc mơ của mình với giấc mơ của nước Mỹ. Đó là sự tôn trọng, đức tin chảy trong người ông về một đất nước đã cưu mang hàng trăm, hàng triệu đồng bào người da màu của ông.

Thái độ, tình cảm của tác giả đối với nước Mỹ qua văn bản:

Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa. Tuy nhiên, ẩn sau bức màn văn hóa đó bao năm qua vẫn âm ỉ tình trạng phân biệt sắc tộc, đặc biệt là sự kỳ thị của những người Mỹ da trắng với cộng đồng người Mỹ gốc Phi. Chính vì lẽ đó, tác giả muốn tất cả mọi người dân đều được sống trong một đất nước tự do bình đẳng để đất nước có thể phát triển. Từ đó, bộ lộ tình cảm sâu sắc của tác giả với đất nước Mỹ và người dân Mỹ gốc Phi bị đối xử phân biệt. Vì thế, nước Mỹ cần có những chính sách và hành động quyết liệt để ước mơ để ước mơ của tác giả không chỉ mãi là ước mơ.

Sau khi đọc 7

Câu 7 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Theo bạn, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay còn có ý nghĩa không? Hãy lí giải ý kiến của bạn.

Phương pháp giải:

Chú ý vào quan điểm của tác giả và thực tế xã hội hiện nay để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Theo em, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay vẫn còn ý nghĩa. Bởi chế độ phân biệt chủng tộc trong xã hội hiện nay về cơ bản đã được giải quyết và trên diện rộng. Nhưng đâu đó trong xã hội, ta vẫn bắt gặp những cách ứng xử, thái độ của một bộ phận người vẫn khiến chúng ta cảm thấy dường như sự phân biệt này vẫn còn tồn tại. Có thể sự phân biệt đã ăn sâu vào tiềm thức của họ qua từng thế hệ, khiến họ chưa thể chấp nhận với sự bình đẳng với người da màu. Chính cái suy nghĩ đó của họ khiến cho một bộ phận người da màu bị tổn thương bởi sự phân biệt tưởng chừng như bình thường của họ. Và cuộc đấu tranh của người da màu vẫn tiếp tục nhưng nó ở cấp độ nhỏ hơn nhưng nó vẫn đúng với quan điểm của bài diễn văn, của Martin Luther King.

Theo em, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay vẫn còn ý nghĩa.

Bởi chế độ phân biệt chủng tộc trong xã hội hiện nay về cơ bản đã được giải quyết và trên diện rộng. Nhưng đâu đó trong xã hội, ta vẫn bắt gặp những cách ứng xử, thái độ của một bộ phận phân biệt điều này.

Theo em, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay vẫn còn rất ý nghĩa. Mặc dù hiện nay đất nước ngày càng tôn trọng sự tự do và bình đẳng nhưng mà đâu đó, góc tối về sự phân biệt chủng tộc vẫn còn tồn tại. Ví dụ như sự kỳ thị của những người Mỹ da trắng với cộng đồng người Mỹ gốc Phi, tình trạng phân biệt đối xử của các nhân viên thực thi pháp luật da trắng với công dân da màu. Các vụ liên tiếp xảy ra gần đây với mức độ nguy hiểm đã gióng lên hồi chuông báo động về nạn phân biệt chủng tộc có xu hướng gia tăng ở Mỹ. Tuy nhiên, từ đó đến nay, vẫn còn rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh vấn đề bình đẳng xã hội tại Mỹ khi nỗi ám ảnh chủ nghĩa phân biệt chủng tộc vẫn còn đang len lỏi trong mọi mặt của đời sống xã hội.

Sau khi đọc 8

Câu 8 (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, bạn rút ra được bài học gì trong việc tạo lập một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục.

Phương pháp giải:

Dựa vào cách trình bày, lập luận, lý lẽ của bài diễn văn để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, em nhận ra rằng để có một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục trước hết về lập luận. Lập luận của văn bản nghị luận phải rõ ràng với bố cục đầy đủ, luận điểm rõ ràng và sắp xếp hợp lý và đặc biệt nó phải phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm chính của văn bản. Lý lẽ, bằng chứng thuyết phục, hợp lý phải được triển khai theo một trình tự hợp lý, liên quan và phải phục vụ làm sáng tỏ luận điểm. Trong một số trường hợp, ta có thể đan cài những câu văn có giá trị biểu cảm nhằm tăng sức thuyết phục cho tác phẩm nghị luận. Nhưng cần lưu ý, chủ yếu vẫn phải tập trung vào những bằng chứng, lý lẽ, không nên quá chú ý đến yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận.

Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, em nhận ra rằng để có một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục trước hết về lập luận. Lập luận của văn bản nghị luận phải rõ ràng với bố cục đầy đủ, luận điểm rõ ràng và sắp xếp hợp lý, đặc biệt nó phải phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm chính của văn bản. Lý lẽ, bằng chứng thuyết phục, hợp lý phải được triển khai theo một trình tự hợp lý, liên quan và phải phục vụ làm sáng tỏ luận điểm.

Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, bài học được rút ra trong việc tạo lập một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục là:

– Tạo lập văn bản nghị luận gồm nhiều thành tố: luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng,…. Các thành tố này phải được tổ chức thành một chỉnh thể, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thuyết phục người đọc.

– Biết vận dụng kết hợp đa dạng các phương thức biểu đạt và biện pháp tu từ.

Viết

Câu hỏi (trang 84, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày điều bạn thấy tâm đắc khi đọc văn bản Tôi có một ước mơ.

Phương pháp giải:

Dựa vào bài diễn văn và đưa ra quan điểm của bản thân.

Lời giải chi tiết:

 

Trong tác phẩm “Tôi có một ước mơ”, điều khiến em tâm đắc nhất khi đọc văn bản này là tinh thần đấu tranh, tâm tư tình cảm của tác giả. Đúng vậy, ông cũng là một người da đen nhưng dựa vào hoàn cảnh ta có thể thấy, ông hẳn là người có quyền, có sức ảnh hưởng nhất định. Có lẽ cuộc sống của ông may mắn hơn những người da đen khác. Nhưng không vì thế mà ông từ bỏ gốc gác, dân tộc của mình. Ông đã cùng với những người da màu đứng lên đấu tranh đòi tự do, công bằng cho dân tộc của mình dù có phải chống lại xã hội mà ông vẫn tôn thờ, phục vụ. Lòng tự tôn, khát khao cháy bỏng được bình đẳng nó đã vượt lên trên những cảm xúc về vật chất tầm thường mà thay vào đó là niềm khao khát cháy bỏng về sự tự do, bình đẳng cho người da màu mà ta thấy rõ qua cụm từ “tôi có một ước mơ” được lặp đi lặp lại nhiều lần. Bởi vậy, ông mãi mãi xứng đáng là tấm gương luôn đấu tranh chống lại sự phân biệt chủng tộc, vì tự do, bình đẳng cho người da màu. 

Văn bản Tôi có một ước mơ – Mác-tin Lu-thơ Kinh đã để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc qua thông điệp về ước mơ được sống bình đẳng, tự do của người da đen nói riêng và của toàn thể xã hội nói chung. Mỗi một quốc gia hay bất cứ đâu trên thế giới con người đều mưu cầu sự tự do. Sống được tự do mới là sống, có tự do con người mới có thể phát triển bản thân, làm những thứ mình thích, cống hiến những điều tốt đẹp cho xã hội. Nếu không có tự do, con người sẽ không có được hạnh phúc, sẽ phải sống trong nỗi thống khổ của cảnh bị đàn áp, áp bức, cuộc sống sẽ chìm trong lầm than, đau khổ. Tự do trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào cũng đều rất quan trọng và là mơ ước của bao người. Hãy trân trọng sự tự do mình đang có và nỗ lực nhiều hơn nữa để cống hiến cho xã hội những điều tốt đẹp hơn.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung học tập, giải trí và các kiến thức thú vị khác tại đây. Chúc các bạn lướt web vui vẻ !

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web