Soạn bài Một thời đại trong thi ca SGK Ngữ văn 11 tập 1 Kết nối tri thức – chi tiết

Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cái cũ? Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình. Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.

Nội dung chính

Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.

Trước khi đọc 1

Câu 1 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cái cũ? Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.

Phương pháp giải:

Dựa vào trải nghiệm của bản thân để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

Em đã từng rất nhiều lần băn khoăn khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Đôi khi chỉ đơn giản là việc lựa chọn trang phục để mặc, đã có lần em mất rất nhiều thời gian vì không biết nên mặc cái áo mới mẹ mua hay cái váy cũ bố tặng bởi áo mới thì đẹp nhưng em không thích hoa văn của nó trong khi cái cũ thì hoa văn và kiểu cách em đều thích. Hay đến việc chọn bạn, nhiều lúc có truyện vui, em không biết nên kể cho bạn quen từ lâu nghe hay kể cho bạn mới quen nhưng thân thiết… Đôi khi nó khiến em khá là bối rối và mất thời gian vì những suy nghĩ cân đo đong đếm khiến bản thân không biết lên lựa chọn như nào cho hợp lý.

Em đã từng rất nhiều lần băn khoăn khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Đôi khi chỉ đơn giản là việc lựa chọn trang phục để mặc, đã có lần em mất rất nhiều thời gian vì không biết nên mặc cái áo mới mẹ mua hay cái váy cũ bố tặng.

Đã có lần tôi băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cãi cũ. Cái mới sẽ được sử dụng nhiều hơn trong cuộc sống hằng ngày, cái cũ sẽ được lưu giữ lại như những kỉ niệm đã qua. Thông thường cái mới sẽ được xây dựng và phát triển trên nền tảng của cái cũ.

Trước khi đọc 2

Câu 2 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.

Phương pháp giải:

Dựa vào sự hiểu biết của bản thân và kết hợp với tìm kiếm thông tin trên mạng để trả lời câu hỏi này.

Lời giải chi tiết:

* Hai bài thơ: Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan) và Vội vàng (Xuân Diệu)

* So sánh

– Giống nhau: cả hai bài thơ đều thể hiện tâm tư, tình cảm, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc đời

– Khác nhau:

Tên tác phẩm

Tiêu chí

Qua Đèo Ngang

Vội vàng

Thể thơ

Thất ngôn bát cú Đường luật

Tự do

Nhịp điệu

4/3

3/5, 2/1/2

Nội dung

Qua con mắt của một người tha hương, bài thơ là bức tranh thiên nhiên và con người nơi Đèo Ngang vắng vẻ, hiu quạnh cùng đượm buồn với nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả.

Bài thơ là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.

Nghệ thuật

– Tả cảnh hữu tình, lấy cảnh vật để tả tâm trạng con người

– Nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng từ láy

– Câu đặc biệt, câu cảm thán

– Câu hỏi tu từ

– Ẩn dụ, động từ mạnh

Chọn bài thơ trung đại Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương và bài Thơ mới Quê hương – Tế Hanh.

So sánh:

– Về nội dung:

+ Thơ trung đại chủ yếu bày tỏ nỗi lòng với thân phận con người (Thi dĩ ngôn chí), nặng tính chất giáo huấn.

+ Thơ mới có cái nhìn mở rộng hơn, phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi các lễ nghi, lễ giáo như ở văn học trung đại. Thơ mới chủ yếu thể hiện “cái tôi” cá nhân trước con người và thế giới: một cái tôi thiết tha, say đắm trước thiên nhiên và con người nhưng có lúc không tránh được nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời và không gian vô tận. Ở đây, tác giả được biểu lộ cái tôi cá nhân vào bài viết.

– Về hình thức:

+ Thơ trung đại mang tính quy phạm, thể thơ gò bó vào niêm luật, hình ảnh mang nặng tính ước lệ, công thức. Hệ thống ước lệ phức tạp, nghiêm ngặt.

VD: Bài thơ “Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương” với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chỉ vẻn vẹn trong 4 câu thơ (lời ít, ý nghĩa) nhưng đã khắc họa rõ nét số phận cũng như những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

+ Thơ mới không sử dụng nhiều hệ thống ước lệ phức tạp, thoát khỏi cách diễn đạt theo quy tắc cứng nhắc, thể thơ tự do (số tiếng, số dòng, vần, nhịp…) ngôn ngữ thơ cần với lời nói cá nhân, hình ảnh sinh động gần với đời sống.

Trong khi đọc 1

Câu 1 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ nội dung câu mở đầu tác phẩm, chú ý vào từ khóa.

Lời giải chi tiết:

Vấn đề được đưa ra để bàn luận ở đây là về tinh thần thơ mới.

Vấn đề được nêu để bàn luận: Hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.

Trong khi đọc 2

Câu 2 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?

Phương pháp giải:

Chú ý vào 2 câu thơ được tác giả trích dẫn trong bài.

Lời giải chi tiết:

 

Theo tác giả, cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới và thơ cũ ở chỗ không phải nhà thơ cũ nào cũng sẽ viết những câu thơ mang hương vị truyền thống, ảm đạm, buồn và không phải nhà thơ mới nào cũng sẽ viết những câu thơ nhí nhảnh, táo bạo mà đôi khi họ cũng sẽ viết những câu thơ mang phong thái cổ xưa. Đó là sự linh hoạt về mặt cảm xúc của mỗi nhà thơ ở mỗi thời đại, họ nhìn đời bằng lăng kính chủ quan của mình để cho ra những lời thơ ý nghĩa, tùy thuộc vào hoàn cảnh chứ không hề cố định.

Theo tác giả, cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới và thơ cũ ở chỗ không phải nhà thơ cũ nào cũng sẽ viết những câu thơ mang hương vị truyền thống, ảm đạm, buồn và không phải nhà thơ mới nào cũng sẽ viết những câu thơ nhí nhảnh, táo bạo mà đôi khi họ cũng sẽ viết những câu thơ mang phong thái cổ xưa.

Thơ mới và thơ cũ không có sự phân biệt rạch ròi dễ nhận ra. Trong Thơ mới, Thơ cũ đều có những bài hay, bài dở, bài hay ít, bài dở nhiều. Đó là khó khăn phức tạp nhất.

Trong khi đọc 3

Câu 3 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn thơ từ “Giá trong thơ cũ chỉ có… với bài hay vậy.”

Lời giải chi tiết:

Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định vì vậy họ mới có thể viết ra những câu thơ cũ trong thời đại mới và những câu mới trong thời đại cũ. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.

Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.

Tiêu chí để phân biệt thơ mới – thơ cũ: phải nhìn vào đại thể.

Trong khi đọc 4

Câu 4 (trang 86, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý cách lập luận của tác giả.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn từ “Cứ đại thể thì… những chỗ khác nhau.”

Lời giải chi tiết:

Cách lập luận của tác giả rất đặc biệt, phân biệt cái cũ với cái mới chỉ gói gọn trong hai từ “ta” và “tôi” và tác giả gợi mở ra phía sau sẽ chỉ ra sự khác nhau giữa chúng.

– Luận điểm: Cái tôi và cái ta trong thơ mới và thơ cũ.

– Lí lẽ: Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nó giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.

 Đặt vấn đề rõ, gọn. Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.

Trong khi đọc 5

Câu 5 (trang 86, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn từ “Ngày thứ nhất – ai biết… cái thảm hại của hết thảy chúng ta.”

Lời giải chi tiết:

Tình trạng của “cái tôi” khi mới xuất hiện ở Việt Nam là nó mang theo nhiều sự bỡ ngỡ, nghi hoặc bởi ra đời trong hoàn cảnh khi trong nước đã có sẵn một cái quan niệm khác đang tồn tại. Nơi mà quan niệm đoàn thể đang lấn chiếm xã hội, chủ nghĩa cá nhân trở lên nhỏ bé và thậm chí là bị bài trừ. Nhưng trong số những người đó, có những người vẫn mang trong mình chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh, đi ngược lại với thời cuộc, nói lên cái cá nhân của mình nhưng thường ẩn sau chữ “ta” thay vì phô ra trước mọi người. Nhưng rồi, “cái tôi” được người đời để ý đến, họ đón nhận nó một cách từ từ và biến nó thành của mình từ đó xuất hiện các nhà thơ của phong trào thơ mới.

Tình trạng của “cái tôi” khi mới xuất hiện ở Việt Nam là nó mang theo nhiều sự bỡ ngỡ, nghi hoặc bởi ra đời trong hoàn cảnh khi trong nước đã có sẵn một cái quan niệm khác đang tồn tại.

– Cái “tôi” xuất hiện bỡ ngỡ vì mang quan niệm cá nhân.

– Khi cái “tôi” xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!

Trong khi đọc 6

Câu 6 (trang 87, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn từ “Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.

Lời giải chi tiết:

Điểm khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới nằm ở chủ đề của tác phẩm. Khác với các nhà thơ đi trước, Thơ mới luôn mang một cái gì đó rất sâu, rất cá nhân thay vì cái gì đó rộng, nhưng nông cạn. Ví dụ như các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… họ đắm mình trong những cảm xúc thăng hoa của tình yêu, điên cuồng, say mê và ngẩn ngơ nhưng cũng đượm buồn, thấm nhuần sự bất hạnh của thói đời.

Điểm khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới nằm ở chủ đề của tác phẩm. Khác với các nhà thơ đi trước, Thơ mới luôn mang một cái gì đó rất sâu, rất cá nhân thay vì cái gì đó rộng, nhưng nông cạn.

– Ngày một ngày hai nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá.

– Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.

– Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.

– Làm cho thơ Việt Nam buồn và xôn xao, cùng lòng tự tôn, ta mất luân cả cái bình yên thời trước.

Trong khi đọc 7

Câu 7 (trang 87, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn từ “Thời trước,… gửi nỗi băn khoăn riêng.”

Lời giải chi tiết:

“Cái tôi” trong Thơ mới là nơi để tác giả thả hồn mình vào với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Để khi chúng ta nhìn vào đó, ta thấy được một tâm hồn đang tồn tại, vui tươi hay đượm buồn, hạnh phúc hay bất hạnh từ đó ta thấy đồng cảm, đồng điệu cùng với cảm xúc của nhà thơ.

Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách: gửi cả vào tiếng Việt. “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Vì họ nghĩ “Tiếng Việt là tấm lụa xứng đã hứng vong hồn những thế hệ qua” và họ tin vào lời nói triết lí “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Trong khi đọc 8

Câu 8 (trang 88, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý cách sử dụng các biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn còn lại

Lời giải chi tiết:

Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở đây là biện pháp điệp cấu trúc (Chưa bao giờ). Qua biện pháp đó, tác giả muốn nhấn mạnh sự độc đáo, tiến bộ và phát triển của Thơ mới, là một sáng kiến vĩ đại của con người chưa từng thấy trước đây.

Sử dụng biện pháp điệp ngữ, so sánh đối chiếu ở cấp độ phù hợp, mang lại hiệu quả.

→ Một cách viết văn nghị luận văn chương dễ hiểu mà rất tài hoa, tinh tế, hấp dẫn.

Sau khi đọc 1

Câu 1 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ tác phẩm để trả lời câu hỏi này

Lời giải chi tiết:

 

Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm:

– Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống

– Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng

– Ý nghĩa của “cái tôi” trong Thơ mới

– Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.

→ Giữa các luận điểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được trình bày theo trình tự hợp lí. Đầu tiên để hiểu được sự ra đời của nó, tác giả chỉ ra sự khác nhau và khó phân biệt giữa 2 thể loại thơ này. Sau đó, ông làm rõ sự khác nhau đó bằng việc khẳng định “cái tôi” trong Thơ mới là một cái gì đó rất riêng và hay. Cuối cùng, ông tổng kết lại, sự ra đời của Thơ mới thể hiện một sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức của các nhà thơ khi họ dám đứng ra nói lên tâm tư, tình cảm của mình một cách táo bạo.

Luận điểm:

– Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống

– Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng

– Ý nghĩa của “cái tôi” trong Thơ mới

– Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.

→ Giữa các luận điểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được trình bày theo trình tự hợp lí.

Các luận điểm làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”:

– Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.

– Tinh thần thơ mới: chữ tôi

– Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

Mối quan hệ giữa các luận điểm: Các luận điểm sắp xếp theo trình tự logic: nêu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận.

Sau khi đọc 2

Câu 2 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn đầu của tác phẩm

Lời giải chi tiết:

Mở đầu, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ, mới nhằm chỉ ra ranh giới không rõ ràng để phân biệt giữa Thơ mới và thơ cũ bởi trong thơ truyền thống cũng có người dũng cảm, dám nói lên cái tôi cá nhân của mình và trong Thơ mới, cũng có những nhà thơ mang tâm hồn trĩu nặng tâm trạng mà viết lên những dòng tâm trạng như những nhà thơ xưa. Điều đó khẳng định không thể dựa vào giai đoạn để nói về 2 thể loại này mà phải dựa vào cái giá trị, cái hay của nó để so sánh.

Mở đầu, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ, mới nhằm chỉ ra ranh giới không rõ ràng để phân biệt giữa Thơ mới và thơ cũ bởi trong thơ truyền thống cũng có người dũng cảm, dám nói lên cái tôi cá nhân của mình và trong Thơ mới, cũng có những nhà thơ mang tâm hồn trĩu nặng tâm trạng mà viết lên những dòng tâm trạng như những nhà thơ xưa.

Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

Sau khi đọc 3

Câu 3 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta… cùng Huy Cận”).

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn từ “Đời chúng ta… cùng Huy Cận.”

Lời giải chi tiết:

Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh khá sâu sắc. Ông chỉ ra rằng Thơ mới chủ yếu đào sâu vào nội tâm tình cảm, tâm hồn của con người, khác với thơ truyền thống họ thường thể hiện trên bề rộng, mơ hồ và cố định. Xong ông đưa ra ví dụ về các nhà thơ mới, họ thể hiện cái tôi, cái nội tâm của mình một cách phong phú có đôi chút phóng túng như tình yêu cháy bỏng của bản thân, nỗi buồn về thiên nhiên, cảnh vật… Từ đó giúp ta hiểu Thơ mới luôn phản ánh tốt nhất về thế giới nội tâm ẩn sau trong tâm hồn của con người.

Ông chỉ ra rằng Thơ mới chủ yếu đào sâu vào nội tâm tình cảm, tâm hồn của con người, khác với thơ truyền thống họ thường thể hiện trên bề rộng, mơ hồ và cố định. Tiếp theo ông đưa ra ví dụ về các nhà thơ mới, họ thể hiện cái tôi, cái nội tâm của mình một cách phong phú có đôi chút phóng túng như tình yêu cháy bỏng của bản thân, nỗi buồn về thiên nhiên, cảnh vật…

Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”):

– Các nhà thơ mới trốn tránh hiện thực và thoát li hiện thực.

– Chủ đề được khai triển theo 2 phần chính: khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung.

– Điểm qua những gương mặt điển hình cũng như qua các lãnh địa riêng tiêu biểu của các nhà thơ mới qua một số nhà thơ tiêu biểu ta thấy được sự phân hóa đa dạng, bế tắc của ý thức cá nhân.

Sau khi đọc 4

Câu 4 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận của Hoài Thanh được thể hiện qua văn bản.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ toàn bộ tác phẩm; chú ý vào những bằng chứng được tác giả sử dụng

Lời giải chi tiết:

 

Cách sử dụng bằng chứng trong lập luận của Hoài Thanh vô cùng sáng tạo và góp phần quan trọng làm sáng tỏ luận điểm:

– LD1: Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống

+ Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ truyền thống nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.

– Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng

+ Trước hết là khi mới lộ diện, tác giả đưa ra dẫn chứng để cho thấy sự khó khăn, rẻ rúng của “cái tôi” trong xã hội lúc bấy giờ: “Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.”

+ Sau khi phân biệt “cái tôi”, “cái ta”, tác giả đưa ra tên tuổi của một số nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…

– Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.

+ Trích dẫn câu nói của chủ báo Nam Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” → khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc. → Để thể hiện cái mới mẻ, cái hay của Thơ mới, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo cũng những dẫn chứng cụ thể để làm nổi bật lên sự mới mẻ, tiến bộ của Thơ mới. Qua đó nhằm khẳng định cái hay, cái đẹp của Thơ mới.

Bằng chứng trong văn bản:

– Nhưng chính Xuân Diệu còn viết…

– Và một nhà thơ cũ tả cảnh thu lại có những câu nhí nhảnh và lả lơi…

– Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch…

– Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu…

– Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ…

– …

→ Hoài Thanh lấy dẫn chứng thực tế từ những nhà thơ mới đa dạng, cụ thể, giúp cho văn bản có sức thuyết phục cao hơn.

+ Khi tìm cái mới của thơ mới tác giả nhìn vấn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thi nhân đương thời thấu đáo, sâu sắc

+ Có cái nhìn thấu đáo về “cái tôi”, “cái ta” có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử.

Sau khi đọc 5

Câu 5 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ đoạn cuối của tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

 

– Biện pháp tu từ được sử dụng: điệp từ “Chưa bao giờ”, so sánh (tinh thần giống nòi – các thể thơ xưa)

 – Giá trị của các biện pháp tu từ: khẳng định sự đa dạng, mới mẻ của tiếng Việt. Sự xuất hiện của nó là một bước tiến mới trong nhận thức của con người về tầm quan trọng của cá nhân trong xã hội. Cái mới mẻ của nó chưa từng được bắt gặp ở đâu và đó chính là điều đáng quý của Thơ mới. Mang theo cơn gió của thời đại, thổi hồn vào thơ, phản ánh một thời đại huy hoàng của thơ ca Việt Nam.

– Biện pháp tu từ được sử dụng: điệp từ “Chưa bao giờ”, so sánh (tinh thần giống nòi – các thể thơ xưa)

→ khẳng định sự đa dạng, mới mẻ của tiếng Việt.

Biện pháp nghệ thuật:

– Điệp ngữ: Chưa bao giờ như bây giờ

– So sánh: Tinh thần nòi giống như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.

Giá trị đặc sắc: Làm cho lời văn nghị luận trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Giúp cho người đọc cảm nhận được tinh thần thơ mới và tình cảm của tác giả, dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm dĩ vãng chỗ dựa tinh thần.

Sau khi đọc 6

Câu 6 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.

Phương pháp giải:

 Đọc lại tác phẩm và rút ra nhận xét

Lời giải chi tiết:

Qua văn bản, em hiểu được sự khác biệt giữa “cái tôi” trong Thơ mới và “cái ta” trong thơ truyền thống. Thơ mới luôn mang đến cho người đọc một cảm giác mới mẻ về thế giới quan của con người khi “cái tôi” được đề cao, con người được tự do thể hiện cảm xúc của mình một cách táo bạo và chân thực nhất. Đặc biệt, qua lối văn phê bình của Hoài Thành đã giải thích cặn kẽ được sự khác biệt cũng như tiến bộ lớn nhất của Thơ mới với thơ truyền thống, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về Thơ mới.

Qua văn bản, em hiểu được sự khác biệt giữa “cái tôi” trong Thơ mới và “cái ta” trong thơ truyền thống. Thơ mới luôn mang đến cho người đọc một cảm giác mới mẻ về thế giới quan của con người khi “cái tôi” được đề cao, con người được tự do thể hiện cảm xúc của mình một cách táo bạo và chân thực nhất.

– Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi người nghệ sĩ.

– Lối văn phê bình của Hoài Thanh:

+ Đặt vấn đề rõ, gọn.

+ Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm.

+ Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.

+ Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấu đáo khoa học.

Viết

Câu hỏi (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.

Phương pháp giải:

Dựa vào cảm nhận của bản thân để trả lời câu hỏi này

Lời giải chi tiết:

 Sự xuất hiện của Thơ mới có thể coi là một bước tiến lớn trong văn học, Hoài Thanh cũng khẳng định: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.”  Nếu như các nhà thơ cũ luôn chỉ nhìn vào những cái bao quát, thì các nhà Thơ mới thể hiện một khía cạnh mới mẻ đó là cái cá tính, sự táo bạo của bản thân thể hiện qua những bài thơ có phần phóng túng, lời thơ bay nhảy. Họ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, tiếng Việt cũng đẹp, cũng hay nếu nó được sử dụng đúng cách, đó là tiếng nói của quê hương, dân tộc bởi vậy nó phải thể hiện tâm tư, nguyện vọng của những người sống trong dân tộc đó. Chính vì sự nhận thức đó, các nhà Thơ mới thực sự đã kéo thơ ca đến gần với những giá trị to lớn hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước ẩn sau sự giàu đẹp của tiếng Việt.

Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc. Đó một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung học tập, giải trí và các kiến thức thú vị khác tại đây. Chúc các bạn lướt web vui vẻ !

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web