Tác giả Tản Đà – Cuộc đời và sự nghiệp

Bài viết Tác giả Tản Đà - Cuộc đời và sự nghiệp giới thiệu đến bạn đọc những nét tiêu biểu về cuộc đời cũng như những thành tựu trong suốt quá trình sự nghiệp của nhà văn Tản Đà.

Tác giả Tản Đà – Cuộc đời và sự nghiệp

1. Tiểu sử nhà văn Tản Đà

– Tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu

Ngày sinh: 19 tháng 5 năm 1889 -7 tháng 6 năm 1939

Quê quán: làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).

Gia đình:

Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế, do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố.

Bà Lưu Thị Hiền có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao – Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.

Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô – Ninh Bình, Vụ Bản – Nam Định, Quảng Oai – Sơn Tây, Vĩnh Tường – Vĩnh Yên.

Cuộc đời:

Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều giai đoạn khóc cười. Năm lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn.

Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình hướng vào con đường cử nghiệp. Theo hồi ký trong 1 bài thơ thì 5 tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,… 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức – một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Hà Nội-, ông viết bài “Âu Á nhị châu hiện thế” bằng chữ Hán, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.

Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn dành cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm tình ái đầu đời. Đó là mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối tình này đều không được trả lời.

Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp đã như quen, cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối “tịch cốc”. Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong giai đoạn này.

Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là “Đông Dương tạp chí” của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục “Một lối văn nôm”.

Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên “Đông dương tạp chí”, nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp.

Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ “Khối tình con I”.

Sau thành công đó, ông viết liền cuốn “Giấc mộng con” (cho in năm 1917) và một số vở tuồng: “Người cá”, “Tây Thi”, “Dương Quý Phi”, “Thiên Thai” (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng).

Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra “Nam Phong tạp chí”, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn “Khối tình con I” và phê phán cuốn “Giấc mộng con I”, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của “Giấc mộng con”, Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm.

Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có “Thần tiền”, “Đàn bà Tàu” (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có “Đài gương”, “Lên sáu” (1919), “Lên tám” (1920), thơ thì có tập “Còn chơi” (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút “Hữu thanh tạp chí” một thời gian.

Năm 1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thư điếm” (sau đổi thành “Tản Đà thư cục”), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; “Tản Đà tùng văn” (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện “Thề Non Nước”, 1922); “Truyện thế gian” tập I và II (1922), “Trần ai tri kỷ” (1924), “Quốc sử huấn nông (1924), và tập “Thơ Tản Đà” (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.

Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời “An Nam tạp chí” số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của “An Nam tạp chí”, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.

Thời kỳ đầu làm chủ “An Nam tạp chí”, Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước – Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào Trung Kỳ thăm Phan Bội Châu, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí “An Nam” cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo.

Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập “Nhàn tưởng” (bút ký triết học, 1929), “Giấc mộng lớn” (tự truyện, 1929), “Khối tình con III” (in lại thơ cũ), “Thề non nước” (truyện), “Giấc mộng con II” (truyện), lần lượt ra đời.

Năm 1931-1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lý và Tống Nho. Ông có câu nói đi vào lịch sử khi kết án Phan Khôi: “vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong quá” và đòi đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít. Thời gian này, ông có vào Sài Gòn ít lâu và đảm nhận phụ trương văn chương cho tờ báo của ông Diệp Văn Kỳ, và cư ngụ tại Xóm Gà.

Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì “An Nam tạp chí” của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe “thơ mới” đem ra cười cợt, trong đó có Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, đã viết một bài “văn tế An Nam tạp chí” với lời lẽ xỏ lá. Thời kỳ đầu của phong trào thơ mới, Tản Đà im lặng. Mãi đến năm 1934, ông mới có một vài lời khuyên nhẹ nhàng gửi các nhà thơ Mới.

Tuy vậy, với vai trò là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương thời, Tản Đà vẫn là một đối tượng chính để những người thuộc phe thơ mới tìm cách đánh đổ. Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn rất hăng hái chê ông, chê mọi thứ, từ tính nghiện rượu, nói nhiều lúc say, hay say, cho đến cái mũi ửng đỏ của Tản Đà cũng bị chê nốt.

Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo Tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đã dần dần trở nên cô độc. Tên tuổi ông gần như bị đẩy lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới: Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Cộng với việc An Nam tạp chí đình bản vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: “Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội – Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.

2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Tản Đà

– Phong cách sáng tác: Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc, thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam

– Tác phẩm:

+ Thơ:

  • Khối tình con I (1916)
  • Khối tình con II (1916)
  • Tản Đà xuân sắc (1918)
  • Còn chơi (1921)
  • Thơ Tản Đà (1925)
  • Khối tình con III (1932)

+ Tuồng:

  • Thiên Thai (1916)
  • Người cá (1917)

+ Văn:

  • Giấc mộng con I (1917), tiểu thuyết
  • Khối Tình (1918, Đông Kinh ấn quán in), tản văn
  • Thần tiền (1919), truyện
  • Đàn bà Tàu (1919), tập truyện
  • Đài gương (1919), giáo khoa
  • Lên sáu (1920), giáo khoa
  • Lên tám (1920), giáo khoa
  • Tản Đà tùng văn (1922)
  • Truyện thế gian I (1922), tập truyện
  • Thề non nước (1922), truyện
  • Truyện thế gian II (1922), tập truyện
  • Trần ai tri kỷ (1924), truyện
  • Tản Đà nhàn tưởng (1929), bút ký triết học
  • Giấc mộng con II (1932), tiểu thuyết
  • Giấc mộng lớn (1932), tự truyện
  • Tản Đà văn tập (1932)

+ Kịch:

  • Tây Thi (1922)
  • Tống biệt (1922)

+ Lịch sử:

  • Quốc sử huấn mông (1924)

+ Dịch thuật:

  • Liêu Trai chí dị (1934)

+ Nghiên cứu:

  • Vương Thúy Kiều chú giải (1938)
  • Một số bài báo…

+ Viết về Tản Đà:

  • Uống rượu với Tản Đà của Trương Tửu (1939)
  • Tản Đà uống rượu làm tôi say đến bay giờ của Vũ Bằng (1970)
  • Người ghét Tản Đà của Vũ Bằng

3. Về các tác phẩm tiêu biểu

3.1. Muốn làm thằng Cuội

Tác giả Tản Đà - Cuộc đời và sự nghiệp (ảnh 1)

a. Bố cục tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

– Hai câu đề: Cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ.

– Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả.

– Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại.

– Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.

b. Nội dung chính tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Muốn làm thằng Cuội là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ tài hoa lãng mạn, đậm chất ngông của Tản Đà. Giọng thơ nhẹ nhàng, chơi vơi, thanh thoát như một lời tâm sự của một con người bất hòa với thực tại, chán ghét cảnh trần thế, khát khao được sống trong sạch hơn, thanh cao hơn, để mãi giữ chọn thiên lương cao đẹp.

c. Tóm tắt tác phẩm Muốn làm thằng cuội

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

d. Phương thức biểu đạt

– Tác phẩm Muốn làm thằng cuội sử dụng phương thức biểu đạt: Biểu cảm

e. Thể thơ

– Tác phẩm Muốn làm thằng cuội thuộc thể thơ: Thất ngôn bát cú

g. Giá trị nội dung tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Bài thơ là một lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

h. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Muốn làm thằng Cuội

Sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạng pha chút ngông nghênh đáng yêu và ở những tìm tòi đổi mới, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển.

3.2. Hầu Trời

Tóm tắt Hầu trời hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

a. Xuất xứ tác phẩm Hầu Trời

– In trong tập thơ Còn chơi, xuất bản năm 1921

b. Bố cục tác phẩm Hầu Trời

– Phần 1 (từ đầu đến sướng lạ lùng): Giới thiệu về câu chuyện

– Phần 2 (tiếp đến Anh gánh lên đây bán chợ trời): Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Phần 3 (còn lại) : Thi nhân trò chuyện với trời.

c. Tóm tắt tác phẩm Hầu Trời

Trong đêm khuya vắng nhà thơ thấy hai cô tiên xuống đón lên trời. Trời sai gọi lên đọc thơ trời nghe. Nhà thơ say sưa đọc thơ. Đọc xong trời khen thơ hay, hỏi tên tuổi, quê quán ở đâu? Nhà thơ kể cảnh nghèo khó nơi hạ giới. Nghe xong Trời an ủi, cho người đưa tiễn về hạ giới.

d. Phương thức biểu đạt tác phẩm Hầu Trời

– Tự sự , miêu tả , biểu cảm

e. Thể thơ tác phẩm Hầu Trời

– Tác phẩm Hầu Trời thuộc thể loại: Thể thất ngôn trường thiên tự do

g. Giá trị nội dung tác phẩm Hầu Trời

– Qua bài thơ tác giả dã thể hiện cái tôi cá nhân ngông ngạo, phóng túng, tư ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời

h. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Hầu Trời

– Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung giải trí học tập và các kiến thức thú vị khác tại đây.

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web