Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không – Kỳ tích của ý chí và trí tuệ Việt Nam

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là một trong những trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là một chiến thắng vĩ đại, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và rút quân khỏi Việt Nam.

Chiến dịch Linebacker II, hay còn được biết đến là Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Chiến dịch Linebacker II, hay còn được biết đến là Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không

1. Bối cảnh lịch sử

Sau thất bại nặng nề ở miền Nam, đế quốc Mỹ quyết định mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, nhằm phá hủy công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc, cắt đường dây hậu cần cho miền Nam, buộc miền Bắc phải đầu hàng. Với ý đồ đó, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, tập trung vào các mục tiêu quân sự, kinh tế và dân sự trọng yếu.

Điểm nhấn trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai là cuộc tập kích chiến lược bằng không quân vào Hà Nội – Hải Phòng cuối năm 1972. Mỹ huy động một lực lượng không quân hùng hậu, với vũ khí hiện đại, đặc biệt là máy bay B-52, để thực hiện cuộc tập kích này. Chúng hy vọng sẽ làm lung lay ý chí chiến đấu của nhân dân ta, buộc ta phải đầu hàng.

2. Lực lượng

Không lực Hoa Kỳ:

Theo Karl J. Eschmann, Mỹ đã huy động:[21]

  • Gần 50% B-52 của toàn nước Mỹ (197 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích 741 lần, 12 phi vụ bị hủy nên còn 729 lần ném bom
  • Gần 1/3 số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần.
  • 1/3 số tàu sân bay (6 trên tổng số 17 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy – dẫn đường, tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu radar, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu,…
  • Tập đoàn không quân 7 và 8 (Seventh air force và Eighth air force): trong đó có các liên đội không quân chiến lược B-52 (Strategic Wing) số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam gồm 143 chiếc B-52G, B-52D và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B-52D đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan); 6 liên đội không quân chiến thuật (Tactical Fighter Wing) gồm 455 máy bay đóng căn cứ tại các căn cứ không quân Ubon Korat và Takhli trên đất Thái Lan, 2 liên đội 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng).
  • Không đoàn đặc nhiệm 77 (Task force 77) là các máy bay trên các tàu sân bay của hải quân gồm 6 liên đội với 420 máy bay trên các tàu sân bay:USS America (CV-66): liên đội số 8 (Carrier Air Wing 8) gồm các máy bay F-4, A-6, A-7.USS Enterprise (CVN-65): liên đội 14 (F-4, A-6, A-7)USS Midway (CV-41): liên đội 5 (F-4, A-7)USS Oriskany (CV-34): liên đội 19 (F-8, A-7)USS Ranger (CV-61): liên đội 2 (F-4, A-6, A-7)USS Saratoga CV-60: liên đội 3 (F-4, -6, A-7)

Quân đội nhân dân Việt Nam :

Hệ thống radar cảnh giới quốc gia và sân bay ở miền Bắc Việt Nam năm 1972

Việt Nam đã tập trung phần lớn lực lượng phòng không chủ lực cho chiến dịch, bao gồm 3 Sư đoàn Phòng không: 361, 363, 375 với 23 tiểu đoàn tên lửa SA-2 (60% toàn lực lượng); 13 trung đoàn pháo cao xạ (50% toàn lực lượng); 4 trung đoàn không quân (100% toàn lực lượng); 4 trung đoàn rađa (80% toàn lực lượng); 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn sông Hồng. Ngoài ra, còn có 346 đội phòng không của dân quân, tự vệ với 1.428 khẩu pháo hoặc súng máy phòng không. Tổng cộng đã có 54.000 chiến sỹ và dân quân tham gia các hoạt động chiến đấu hoặc vận tải.

Hà Nội 12 ngày đêm

3. Diễn biến chiến đấu

Trước âm mưu thâm độc của kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã có những quyết định sáng suốt, chỉ đạo quân và dân ta sẵn sàng đối phó. Quân chủng Phòng không – Không quân đã được tăng cường về lực lượng, vũ khí, trang bị. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân dân ta được nâng lên cao độ.

Cuộc chiến đấu đã diễn ra hết sức ác liệt. Trong 12 ngày đêm (từ 18 đến 29/12/1972), quân và dân ta đã lập nên những chiến công vang dội, bắn rơi 81 máy bay các loại của địch, trong đó có 34 máy bay B-52. Hà Nội – Hải Phòng trở thành “mồ chôn máy bay B-52” của đế quốc Mỹ.

4. Kết quả trận chiến:

Số lượng máy bay Mỹ bị bắn hạ:

Một mảnh xác máy bay B-52 bị bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp, Hà Nội, trong Chiến dịch Linebacker II

Thiệt hại của Không quân Mỹ theo phía Mỹ công bố là 11 chiếc B-52 đã bị bắn rơi trên lãnh thổ Bắc Việt Nam, 5 chiếc khác rơi tại Lào hoặc Thái Lan[57]. 26 phi công B-52 được cứu thoát, 33 người khác bị chết hoặc mất tích, 33 bị bắt làm tù binh chiến tranh. Đồng thời không quân chiến thuật Mỹ mất 12 máy bay (2 F-111, 3 F-4, 2 A-7, 2 A-6, 1 EB-66, 1 trực thăng cứu hộ HH-53 và 1 máy bay RA-5C), 10 phi công chiến thuật bị chết, 8 bị bắt, và 11 được cứu thoát. Trong số 28 máy bay cả B-52 và chiến thuật bị bắn rơi, 17 trường hợp do trúng tên lửa SA-2, 3 trường hợp do bị máy bay MiG tấn công vào ban ngày, 3 do pháo phòng không, và 3 trường hợp không rõ nguyên nhân.

Tuy nhiên, số liệu của không quân Mỹ bị nghi ngờ do cách tính thiệt hại của họ có phần mập mờ. Nếu một chiếc máy bay bị hư hỏng nặng, nhưng vẫn quay về được sân bay, thì Mỹ sẽ không tính chiếc máy bay đó bị tiêu diệt, ngay cả khi nó bị hỏng nặng tới mức không thể bay trở lại. Trong chiến dịch, Không quân Mỹ nói với báo chí rằng 17 chiếc B-52 đã bị mất. Sau đó, Không quân Mỹ lại báo cáo với Quốc hội rằng chỉ có 13 chiếc B-52 bị mất. Chín chiếc B-52 trở về sân bay U-Tapao bị hư hỏng quá nặng để có thể bay trở lại. Số lượng B-52 hư hại quay về được sân bay đảo Guam thì vẫn chưa được biết. Như vậy, số B-52 bị mất (rơi tại chỗ hoặc hỏng nặng không thể bay trở lại) có lẽ là từ 22 đến 27 chiếc[31]

Theo số liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng cộng trong 12 ngày đêm có 81 máy bay các loại bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B-52 (có 16 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F-111 (có 2 chiếc rơi tại chỗ)[58], ngoài ra còn có 21 chiếc F-4 Phantom, 4 chiếc A-6, 12 chiếc A-7, 1 chiếc F-105D, 2 chiếc RA-5C, 1 chiếc trực thăng HH-53, 1 chiếc máy bay trinh sát không người lái 147SC. Trong số 34 B-52 bị bắn rơi, 23 chiếc là do lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội bắn rơi, 11 chiếc khác do lực lượng phòng không các tỉnh/thành phố khác bắn rơi.

Lực lượng Không quân Việt Nam đã xuất kích 31 phi vụ, trong đó có 27 phi vụ MiG-21 và bốn phi vụ MiG-17, tiến hành tám trận không chiến, tuyên bố bắn rơi 2 chiếc B-52, bốn chiếc F-4 Phantom và một RA-5C. Tổn thất của Việt Nam là ba chiếc MiG-21 bị bắn rơi.

Ngoài số máy bay bị rơi tại chỗ, có 4 chiếc B-52 khác bị trúng đạn hư hại nặng nhưng vẫn bay về được sân bay và 5 chiếc khác bị hỏng mức trung bình. Trong số B-52 bị bắn hỏng nặng, một số chiếc có thể bị hỏng nặng đến mức không bay được nữa, nhưng Mỹ lại không tính là “bị bắn rơi”, vì vậy số B-52 bị diệt trong thực tế có lẽ phải cao hơn con số 16 chiếc mà Mỹ công nhận (khi giám sát việc tiêu hủy B-52 theo hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn 2 (SALT-II), các chuyên gia Liên Xô phát hiện nhiều máy bay B-52 tại sa mạc Nevada thực chất là các B-52 đã bị bắn hỏng nặng tại Việt Nam, chúng không còn bay được nữa và được tập kết về đây để tiêu hủy).

Một số thống kê khác của Việt Nam:

  • Trong 34 B-52 bị bắn rơi, 29 chiếc là do tên lửa phòng không, 3 chiếc là do pháo cao xạ 100mm, 2 chiếc là do tiêm kích MiG-21.
  • Tên lửa phòng không bắn rơi 36 máy bay các loại, không quân tiêm kích bắn rơi 12 máy bay, còn lại là pháo hoặc súng máy cao xạ bắn rơi.
  • Đơn vị phát hiện B-52 đầu tiên: Đại đội radar 16 trung đoàn 291 – 19h10 ngày 18 tháng 12.
  • Đơn vị đầu tiên đánh B-52: Tiểu đoàn 78 trung đoàn 257 – 19h44 ngày 18 tháng 12.
  • Đơn vị bắn rơi B-52 đầu tiên: Tiểu đoàn 59 trung đoàn 261 – 20h13 ngày 18 tháng 12.
  • Trung đoàn 261 bắn rơi nhiều B-52 nhất: 12 chiếc.
  • Trung đoàn 257 bắn rơi tại chỗ nhiều B-52 nhất: 8 chiếc.
  • Tiểu đoàn 57 (trung đoàn 261) bắn rơi nhiều B-52 nhất: 4 chiếc.
  • Tiểu đoàn bắn rơi tại chỗ nhiều B-52 nhất: Tiểu đoàn 77 (trung đoàn 257) và Tiểu đoàn 93 (trung đoàn 261): mỗi tiểu đoàn bắn rơi 3 chiếc B-52.
  • Tiểu đoàn 79 (trung đoàn 257) bắn rơi chiếc B-52 cuối cùng: 23h16 ngày 29 tháng 12
  • Tiểu đoàn 72 (trung đoàn 285) bắn quả tên lửa cuối cùng trong chiến dịch: 23h29 ngày 29 tháng 12

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Nó đã đi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về ý chí bất khuất, trí tuệ sáng tạo của con người Việt Nam.

5. Ý nghĩa lịch sử

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” có ý nghĩa lịch sử to lớn:

Chiến thắng lịch sử chấn động địa cầu, lừng lẫy năm châu
  • Thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ: Cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn. Điều này đã làm lung lay niềm tin của Mỹ vào sức mạnh quân sự của mình và buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
  • Khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam: Chiến thắng này đã chứng tỏ sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta.
  • Góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh: Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
  • Góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc trên thế giới: Chiến thắng của Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc của các nước trên thế giới.

6. Bài học kinh nghiệm

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu:

  • Tinh thần yêu nước, quyết chiến, quyết thắng: Tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta là sức mạnh vô địch.
  • Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng: Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.
  • Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân: Sự đoàn kết của toàn dân tộc là nguồn sức mạnh vô tận.
  • Vai trò của quân đội nhân dân: Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung học tập, giải trí và các kiến thức thú vị khác tại đây.

Chia sẻ bài viết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web