Phân tích bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác là tài liệu hữu ích, gồm có dàn ý chi tiết kèm theo 1 sơ đồ tư duy và 1 bài văn mẫu phân tích hay nhất. Qua đógiúp các em học sinh lớp 11 hiểu rõ hơn về đoạn trích này. Đồng thời, tích lũy thêm được vốn từ để viết văn ngày một hay hơn.
Mục lục
Nội Dung
1. Dàn ý phân tích bài Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác
a) Mở bài phân tích Vào phủ chúa Trình
– Giới thiệu vài nét tiêu biểu về cuộc đời của Lê Hữu Trác: một tác giả được mọi người biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học Việt Nam.
– Giới thiệu sơ qua về tác phẩm: đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại một lần ông được truyền tới phủ chúa để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu ở trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác
b) Thân bài phân tích Vào phủ chúa Trịnh
*Quang cảnh và cung cách sinh hoạt ở trong phủ chúa Trịnh
♦ Quang cảnh nơi phủ chúa Trịnh
– Vào phủ:
- Phải đi qua nhiều lần cửa, cùng với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, ở mỗi cửa đều có những vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”.
- Vườn hoa: cây cối um tùm, chim thì kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.
- Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đii truyền lệnh.
– Trong phủ:
- Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” cùng với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc ở nhân gian chưa từng thấy.
- Đồ dùng để tiếp khách ăn uống toàn là những mâm vàng và chén bạc.
Nội cung thế tử:
- Phải đi qua 5-6 lần trướng gấm
- Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng thì sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn lá che ngang san, xung quanh thì lấp lánh, hương hoa thì ngào ngạt.
→ Lộng lẫy, tráng lệ, thể hiện một sự thâm nghiêm và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa.
♦ Cung cách sinh hoạt
– Quyền uy: Khi Lê Hữu Trác được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”
– Nhắc đến chúa và thế tử một cách rất cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…
– Khuôn phép và lễ nghi: Tác giả không được thấy mặt của chúa và chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền đến, trước khi vào xem bệnh cho thế tử Trịnh Cán phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử thì phải có viên quan nội thần đến xin phép
– Lắm kẻ hầu người hạ: Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu trực xung quanh, Thế tử bị bệnh phải có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”
⇒ Cao sang và quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa
⇒ Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và tự do
* Tài năng và y đức của Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác)
– Có sự mâu thuẫn và giằng co:
- Hiểu rõ căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa Trịnh tin dùng, bị công danh trói buộc.
- Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm và y đức, sợ phụ lòng của ông cha.
– Cuối cùng phẩm chất và lương tâm của người thầy thuốc đã thắng. Ông gạt sở thích cá nhân sang một bên để làm tròn trách nhiệm ⇒ Là một người thầy thuốc có lương tâm và đức độ.
– Khinh thường lợi danh, quyền quý và yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị ở nơi quê nhà
– Kể diễn biến sự việc vô cùng khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nhỏ nào để tạo nên cái thần của cảnh và sự việc
* Nét đặc sắc ở trong bút pháp ký sự của Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác)
– Quan sát vô cùng tỉ mỉ (Quang cảnh phủ chúa, nơi thế tử Cán ở)
– Ghi chép rất chân thực
– Tả cảnh cực kỳ sinh động
– Tái hiện diễn biến sự việc một cách khéo léo và thu hút sự chú ý của độc giả, kể tỉ mỉ, chi tiết
c) Kết bài phân tích Vào phủ chúa Trịnh
– Khái quát, nhấn mạnh lại nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
– Mở rộng vấn đề: Đoạn trích ghi chép một cách vô cùng chân thực cho chúng ta hiểu thêm về cách sống và cách sinh hoạt của vua chúa trong quá khứ dân tộc.
3. Bài văn mẫu – phân tích bài Vào phủ chúa Trịnh
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác (1720-1791) ông không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có rất nhiều tác phẩm văn học có giá trị ở thời trung đại. Lê Hữu Trác đã để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả đó chính là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học của thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của Lê Hữu Trác không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học rất sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cũng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của một người thầy thuốc. Thượng kinh ký sự là tập ký sự nổi tiếng ở trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa owr trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực của nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho con trai – thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả về cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét được tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.
“Thượng kinh ký sự” ghi lại hành trình của tác giả lên kinh đô Thăng Long để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn ký sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà và cực kỳ tài hoa.
Lần đầu tiên, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất là kỹ càng. Cửa sau để vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn thấy một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa và vệ sĩ canh giữ vô cùng nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại giống như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, tác giả ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên và xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen!”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang theo một tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng rằng ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết ký sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì lẽ đó!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga và tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện đều có một cái tên riêng. Đó là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm cạnh bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía bên ngoài có những cây “lạ lùng”, còn có những hòn đá rất “kỳ lạ”. Nhà “Đại đường” hay còn gọi là “Quyển bồng”. Là một cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” còn gọi là “Gác tía”, nơi của thế tử dùng “chè thuốc”, thì gọi là “Phòng trà”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp và sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp ở nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa cho đến hồ, từ lầu son cho đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí và công sức của nhân dân làm nên, vì vậy Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp ở nơi Trịnh phủ được miêu tả mang một ý nghĩa hiện thực phản ánh về cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa chính là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều được sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm chính là một cái sập thếp bằng vàng, trên sập được mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập được bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông Lê Hữu Trác phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử – con bệnh – là con của Trời, mới lên 5, 6 tuổi được mặc áo lụa đỏ, ngồi ở trên cái sập thếp vàng. Bên cạnh sập được đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua tận 5-6 lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, còn sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian vô cùng “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng là “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Vua chúa và bọn quan lại ở trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất ở trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon và nhớ mãi. Tuy ông chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc vô cùng danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói rằng: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm chính là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân đến một vài cung điện, mới tiếp xúc với một vài cảnh và một số ít người, nhưng ông đã nêu bật lên được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh. Cuộc sống của đế vương được xây dựng trên mồ hôi và xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ đều do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt để cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều là vậy! Tác giả “Thượng kinh ký sự” có một lối viết vô cùng hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết đều được ông nói đến rất sống động.
Lê Hữu Trác vốn là dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết đến, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông đã choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh để sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy việc chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài và có tiếng tăm như sấm động nên đã có thánh chỉ triệu ông vào cung chữa bệnh cho thế tử. Ông viết một cách rất hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Nửa thế kỷ sau, Cao Bá Quát đã chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người ở nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác đã có lúc mất tự nhiên, có lúc lại sợ sệt, hoặc “cúi đầu” hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải haii lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn thuốc là một cuộc tự đấu tranh về tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi và y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ rằng: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi và chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!”
Lương tâm của bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến chính là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là một lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợii ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có đến năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu trực xung quanh thế tử, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng và lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”.
Qua đó, ta thấy được tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch và thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên hàng đầu. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật là giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và làm biếng danh lợi.
Đoạn trích là những trang ký sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa Trịnh và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực đó, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả chính là một tâm hồn, một nhân cách vô cùng cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng tới công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống một cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn còn hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống của cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông vẫn không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi và trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại ông không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi mà danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ của ông dùng thật khiêm nhường: “Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này”. Ông còn dũng cảm chỉ ra những sự ngu dốt của những quan thái y trong triều, đó chính là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm và nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên cho thánh thượng. Ông cũng chính là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phủ chúa một cách vô cùng chính xác: “Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi”. Chốn lầu son gác ngọc đó đã làm cho con người trở nên hao mòn, rồi mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt giống như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý của mình. Tỏ vẻ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt và sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện vô cùng rõ nét của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận và diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh và ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.