Soạn bài Viết bài tập làm văn số 3 – Văn tự sự trang 191

Bài làm tham khảo:

Đề 1: Hãy kể về một lần em trót xem trộm nhật kí của bạn

Bài làm tham khảo:

     Căn phòng của tôi khá bừa bộn, sách vở đồ dùng để lung tung. Để tìm một cái gì đó, có khi tôi phải mất cả tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, vẫn có một thứ mà tôi không bao giờ để sai chỗ, nó luôn trong trí nhớ của tôi bất kể tói có quên đi mọi thứ khác chăng nữa. Đó chính là bức ảnh tôi và Mai chụp chung năm nào.

     Mai là cô bạn gái thân thiết nhất của tôi. Chúng tôi chơi với nhau từ hồi còn bé xíu nên tôi hiểu rất rõ Mai. về Mai, ai cũng phải thừa nhận bạn rất xinh và dễ mến. Mái tóc dài thướt tha và đen mượt ôm lấy khuôn mặt trái xoan, đôi lông mày thanh tú và cái miệng chúm chím đáng yêu làm sao! Thông minh, học giỏi, khéo tay khiến tôi càng hãnh diện về bạn. Và hơn cả, Mai lại sống rất tình cảm. Chúng tôi đi đâu cũng đi cùng nhau. Tôi hay sang nhà Mai chơi cũng như bạn hay đến thăm tôi. Những lần nhìn thấy bố mẹ Mai chăm lo cho bạn, tôi cảm thấy cuộc sống của Mai hạnh phúc biết nhường nào, có lẽ còn hơn tôi.

     Một lần, tôi đến nhà Mai mượn sách. Mai bảo tôi cứ tìm thoải mái còn mình xuống làm bánh. Cả một tủ sách khiến tôi hoa cả mắt. Mải tìm kiếm nên tôi lỡ làm rơi một quyển sách. Tôi cúi xuống nhặt, ra là quyển: Cuộc sống hạnh phúc. Biết rõ Mai nhưng tôi không hiểu cuốn truyện nhạt nhẽo này hấp dẫn bạn ở điểm nào. Khi cất nó vào tủ tôi phát hiện ra một kẽ hở nhỏ cạnh kệ sách. “Cái gì vậy nhỉ!” Tôi tò mò nghĩ thầm và cố lôi nó ra, một quyển sổ cũ kĩ, tôi mở ra xem. Không! Đó là nhật kí của Mai! Tòi vội vàng gập lại ngay và định để vào chỗ cũ. Nhưng tôi muốn biết rõ thêm về Mai, rằng tại sao bạn lại thích đọc cuốn Cuộc sống hạnh phúc, tôi không ngăn được tay mình mở cuốn sổ, mắt mình đọc nó. Tôi đã cố gắng nhưng mắt tôi vẫn dán vào. “Trời ơi! Lẽ nào lại vậy! Lẽ nào Mai…”. Đang đọc bỗng dưng tôi nghe thấy tiếng “xoảng”, tôi quay đầu lại: Mai! Tay tôi run bắn, cuốn nhật kí rơi bộp xuống đất. Mai chạy về phía tôi, nhặt vội cuốn sổ. Tôi đứng trân trân, người bất động, không nói được lời nào. Tôi chỉ nhớ ánh mát rưng rưng, Mai nhìn tôi, đầy tức giận, môi run rẩy: “Đi ra ngay!”

     Tôi chạy vụt đi, lòng nặng nề vô cùng.

     Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Mai giận dữ như vậy. Tôi chạy, chạy như điên ánh mắt ấy, tôi muốn khóc quá. Tôi rất sợ, sợ sự giận dữ Mai ném cho tôi, sợ cả chính việc mình vừa làm, về đến nhà, tôi đóng sập cửa phòng lại. Tôi thở hổn hển, chân tôi đứng không vững nữa, tôi bán thần ngồi xuống ghế như không tin chuyện vừa xảy ra. Lúc bình tĩnh lại, tôi tự trách mình tại sao lại làm như vậy. “Tại sao tôi lại không chiến thắng được tính tò mò của mình? Tại sao?…”. Tôi buồn bực quăng cả chồng sách trên bàn xuống đất. Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt, không yên.

     Đêm đó, tôi cứ trằn trọc mãi – tôi ước gì chuyện đó chưa bao giờ xảy ra vì ngày mai chúng tôi lại cùng nhau đi học. Tôi suy nghĩ miên man, nhất là về chuyện gia đình Mai. Tôi nhớ lại những trang nhật kí đầy nước mắt trong cuốn sổ ấy, làm sao tôi có thể tưởng tượng rằng gia đình Mai không hề hạnh phúc, rằng suốt ngày Mai luôn phải nghe những trận cãi vã của ba mẹ. Tôi không tin vào những gì mình đã đọc. Càng nghĩ, tôi càng tưởng tượng ra tâm trạng Mai và tôi càng thương Mai hơn, chắc hẳn bạn cô đơn và buồn bã lắm, có thể Mai còn sợ hãi cho những gì sắp xảy ra nữa. Vậy mà tôi đã từng cho rằng mình hiểu rõ Mai. Tôi muốn chia sẻ cùng Mai biết bao nhiêu, muốn an ủi và làm hòa với bạn. Nhưng tôi lo rằng Mai vẫn trách móc, giận tôi. Bạn sẽ không nói với tôi một lời nào nữa, có thể lắm chứ. Giữ trong mình một bí mật quá lớn, tôi tự nghĩ hay mình nên chia sẻ cùng ai khác. Tôi có thể vơi đi phần nào và các bạn khác sẽ thông cảm với Mai. Nhưng tôi không làm được, tôi sẽ không cho phép mình xử sự vậy. Tôi đã cố tình xen vào sự đau buồn Mai hằng cất giữ, giờ lại muốn phơi bày, để lộ ra ư? Vậy tôi đâu còn là bạn của Mai nữa. Và cứ thế, hết đường này đến đường khác tôi nghĩ cho mình cách đi mà cuối cùng vẫn không sao thoát khỏi sự ăn năn. day dứt.

     Sáng hôm sau, tôi đến lớp một mình, Mai vẫn giận tôi, bạn né tránh và không nói chuyện với tôi. Tôi đã rất quyết tâm đến xin lỗi Mai, nhưng rồi tôi lại sợ, sợ nhìn lại vẻ mặt tức giận của Mai tôi cũng tránh Mai luôn.

     Sau hôm đó, tôi tự thuyết phục mình sẽ đến gặp Mai. Nhưng hai hôm, rồi ba hôm sau, Mai không đến lớp, tôi rất lo lắng đang định đến nhà Mai thì tôi thấy Mai đứng trước cửa nhà:

     – Mai, mình sẽ đi Sài Gòn cùng mẹ. Tạm biệt Bình! – Mai nói trong nước mắt.

     – Trời! – tôi thốt lên khe khẽ – Sao lại vậy?. Tôi đứng lặng đi nhìn Mai mà ứa nước mắt.

     Ghì chặt mấy quyển sách trong tay, Mai nói trong tiếng nấc: “Bố mẹ mình li dị rồi!”

     Tai tôi như nghe không rõ nữa, Mai sắp đi xa ư, rời khỏi tôi mãi ư, về sau tôi có còn gặp lại Mai nữa không, tôi không muốn nghĩ tiếp. Có điều gì đó thôi thúc trong lòng tôi, tôi bật ra, không chút kìm nén.

– Mai, mình xin lỗi, mình không cố tình đâu… chi vì…

Nói đến đấy, tôi thổn thức. Trong lòng tôi, sự hối hận đã vơi nhiều, chỉ còn sự xót xa và cảm giác mất mát, mất một cái gì đó thật lớn lao. Mai nhìn tôi, ánh mắt đầy lưu luyến, bạn gật đầu, giọng xúc động:

– Chúng ta vẫn là bạn – Mai nói không chút ngập ngừng.

     Hai chúng tôi xích gần lại nhau hơn. Mai và tôi đã cảm thấy điều gì quý nhất ở tình bạn. Lần đầu tiên, chính Mai đã lau nước mắt trước:

– Mình không buồn nữa đâu, cậu cũng đừng buồn Bình à. Mình còn biết bao nhiêu điều muốn nói với cậu cơ mà.

     Đến lúc này, tôi cảm thấy như mình đã lãng phí quá nhiều thời gian. Mai đâu còn ở với tôi lâu nữa. Tôi quệt nước mắt, dắt tay Mai vào nhà.

     Chúng tôi đã nói với nhau biết bao chuyện, nhưng tuyệt nhiên không ai nhắc đến chuyện buồn của Mai. Hơn ai hết, tôi hiểu rằng chính mình phải làm cho Mai tin ở những điều tốt đẹp, tin ơ tương lai tươi sáng hơn. Mọi nỗi buồn với Mai sẽ qua đi theo năm tháng, tôi chỉ mong rằng tình bạn tôi dành cho Mai sẽ làm vơi đi phẫn nào nỗi buồn của ban lúc này. Chợt, tôi thấy quyển truyện Cuộc sống hạnh phúc, tôi mới hỏi:

– Mình hỏi một chút được không! Sao cậu có vẻ mê cuốn truyện này thế?

    Nó tẻ nhạt thật đấy, đúng là quanh đi quẩn lại cũng chỉ nói về cuộc sống của một gia đình. Nhưng, Bình ạ, nó lại rất hấp dẫn mình, vì đọc nó, mình cảm giác như được sống trong một gia đình thực sự, được cảm nhận sự yêu thương, che chở của bố mẹ…

     Ra là vậy, giờ tôi mới hiểu tại sao.

     Đi với mình một chút – Mai nắm tay áo tôi kéo đi. Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được khu vườn sau nhà Mai, nơi chúng tôi vẫn thường chơi đùa hồi bé. Mai đến một gôc cây to, đào lên một chiếc hộp sắt rồi nói:

– Từ bé, mình đã cất giấu những kỉ niệm buồn vào đây, bây giờ mình sẽ cất quyển sổ này, cất đi những nỗi buồn, Bình ạ!

Nói xong, Mai bỏ cuốn sổ vào hộp, chôn lại dưới gốc cây.

     Mình sẽ đi xa, mình sẽ sống một cuộc sống mới. Mình không muốn ai đọc lại những trang nhật kí ấy. Chúng sẽ ở lại đây, gắn với ngôi nhà này. Khi nào Bình buồn, cậu cứ đến đây. Mình tin gốc cây này sẽ giúp cậu vơi đi nỗi buồn đấy.

     Tôi im lặng ngắm những tán cây, liệu cây có hiểu những điều Mai nói không? Tôi nắm tay Mai – “Chúng ta mãi là bạn, là bạn thân thiết!”, tôi nhủ thầm.

     Đó là cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. hôm sau, Mai bay vào Sài Gòn cùng mẹ.

     Câu chuyện năm nào luôn sống trong tôi, tôi vẫn mong có dịp gặp lại Mai và luôn cầu mong Mai có cuộc sống hạnh phúc.

Đề 2: Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện đó.

Bài làm tham khảo:

     Hôm nay, ông ngoại tôi dậy từ rất sớm. Ông vừa tập thể dục vừa huýt sáo rất vui vẻ. Từ trong phòng mình tôi cũng có thế nghe thấy giai diệu của những bài hát Cách mạng thật hùng tráng. Tôi sực nhớ ra ráng hôm nay là ngày 22 tháng 12, ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Xam và cũng là ngày đơn vị cũ của ông tôi tổ chức họp mặt các cựu chiến binh. Ông tôi lấy bộ huân huy chương của ông ra, lau tỉ mỉ từng chiếc cho sáng bóng lên, là bộ quân phục cũ thật phẳng phiu, sẵn sàng cho buổi họp trang trọng này. Thật may mắn, tôi được theo ông đến dự buổi họp mặt bởi ông ngoại muốn tôi hiểu rõ hơn về cuộc kháng chiến oanh liệt đã qua.

      Khi ông và tôi đến thì hội trường đã chật cứng người. Niềm vui của mỗi người cũng lộ rõ trên từng ánh mắt, nụ cười. Đã lâu rồi mọi người trong đơn vị mới được gặp lại nhau. Cả hội trường tràn ngập tiếng hỏi han, tiếng cười vui sướng. Các ông bà nay đều đã già nhưng vẫn rất vui vẻ. lạc quan và rất khỏe mạnh. Ông ngoại tôi dẫn tôi đến và giới thiệu tôi với tiểu đội trưởng của ông ngày xưa – ông Nguyên. Ông Nguyên có khuôn mặt phúc hậu với nụ cười rất hiền từ, trìu mến. Ông có mái tóc bạc trắng, làn da đỏ au và giọng nói sang sảng, khỏe khoắn. Thoạt nhìn ông tôi đã cảm thấy ông là một người rất dễ mến. Khi biết tôi muốn tìm hiểu về cuộc sống chiến đấu của bộ đội ta thời chiến tranh, ông xoa đầu tôi và bảo: “Cháu biết vậy là tốt lắm. Thế hệ trẻ bây giờ cần phải biết cha ông ta khi xưa đã phải gian lao thế nào để bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc”. Ông tôi và ông Nguyên đều là những chiến sĩ lái xe trên con đường Trường Sơn lịch sử mà chiến công của họ đã từng được đưa vào thơ văn. Điển hình là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Tôi hỏi ông Nguyên “Ông ơỉ, cháu thấy các ông thật là giỏi, xe không có kính mà vẫn lái được. Như chúng cháu bây giờ thì làm sao mà chịu nổi bụi bặm như vậy, chưa kể chúng cháu còn được đi trên những con đường được trải nhựa hết sức bằng phẳng. Ông Nguyên nhìn tôi rồi cười và nói: “Chiến tranh mà cháu, bom đạn đã cướp đi tính mạng biết bao con người huống chi là cái kính xe ô tô. Các ông phải lái xe trong mưa bom bão đạn, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh lắm. Lúc đó cái chết kề cận các ông còn không sợ thì bụi chỉ là chuyện nhỏ thôi, cháu gái ạ. Thực sự thì xe không có kính cùng kéo theo nhiều phiền toái lắm: Gió và bụi cứ thế ùa vào buồng lái, nhiều lúc mắt ông cay xè tưởng như không nhìn rõ đường nữa. Chưa kể có những hôm trời mưa, nước mưa tuôn xối xả vào buồng lái. Uớt lạnh kinh khủng nhưng vẫn cố lái, không hề ngừng nghỉ. Rồi ông hắng giọng đọc to: 

 Không có kính, ừ thì có bụi

 Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rứa phì phèo chàm điểu thuốc

 Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

      Tôi nói : “Cháu đã đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật, cháu thấy nhà thơ viết rất chân thực về cuộc sống gian khổ của các ông. Bài thơ đã để lại cho cháu ấn tượng rất sâu sắc”. Ông Nguyên tiếp lời ngay: “Đúng, bài thơ hay lắm, vì Phạm Tiến Duật cũng là lính Trường Sơn, tận mắt chứng kiến bộ đội ta chiến đấu như thế nào. Nhưng theo ông thì không có thơ văn nào diễn tả hết được đâu cháu. Một trong những nỗi khổ của bộ đội các ông chính là phải xa gia đình – mái ấm thân yêu. Từng lá thư gia đình gửi lên, từng món quà hiếm hoi các ông cũng chia sẻ với nhau cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Và trong hoàn cảnh như vậy thì tình đồng đội đã giúp các ông rất nhiều, các ông cùng nhau ăn ngủ, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui, chia sẻ những tiếng cười nhưng xúc động nhất là được bắt tay nhau thật nhanh, thật chặt qua cái cửa không kính ấy. Bởi vì mình cần sống và được chứng kiến rằng bạn mình vẫn sống, khoẻ mạnh. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng con người, nhiều đồng đội cũ hằng chiến đấu cùng ông và ông ngoại cháu đã vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường, có những người hài cốt vẫn chưa được tìm thấy. Mỗi lần nhớ đến họ, ông lại rất thương cảm, xót xa”. Sau một khoảng im lặng, tôi tiếp tục hỏi ông: “Vậy ông thích câu thơ nào nhất trong bài thơ ạ?” Ông Nguyên nhăn trán lại suy nghĩ rồi đáp: “Hai câu cuối cháu ạ: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Hai câu này thật giàu ý nghĩa, chính tấm lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam đã thúc đấy bộ đội ta vượt lên trên mọi gian khổ, hi sinh. Chiếc xe ở đây không phải chạy bằng xăng, dầu mà chạy bằng nhiên liệu vĩnh cửu đó là lòng yêu nước của những người lính lái xe đấy”. Ông Nguyên lại xoa đầu tôi rồi nhìn thẳng vào mắt tôi, ông nói:

     “Hiểu được những gian khổ mà cha ông ta phải trải qua để bảo vệ đất nước khỏi ách nô dịch của giặc ngoại xâm, các cháu phải cố gắng học thật giỏi, đem lại vinh quang cho đất nước, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp nhé!”.

     Về đến nhà rồi mà trong đầu tôi vẫn âm vang những lời dặn dò của ông Nguyên. Vâng, thế hệ trẻ chúng ta phải luôn ghi nhớ công ơn của cha ông từ thời xưa giữ nước, chúng ta phải làm rạng danh cho non sông để đền đáp công ơn như trời biển ấy.

     Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu cùa dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đả lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.

     Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc – Nam

     Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:

– Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì “bom rơi đạn lạc” như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe vân tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không cỏ vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.

     Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt cùa các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: “Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua dược thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ”. Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt được thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.

     Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:

 Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ,      

 Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

     Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khản. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, xiết chặt tình đồng đội.

      Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.

Đề 3: Nhân ngày 20 tháng 11 kể cho các bạn nghe về một kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ

     Guồng quay của thời gian vẫn cứ trôi đi lặng lẽ và âm thầm, có những kỉ niệm đã lãng quên vào quá khứ nhưng có những kỉ niệm sống mãi cùng thời gian. Với tôi, mỗi khi nghe những giai điệu du dương ngọt ngào: Như dòng suối ra sông như dòng sông ra biển rộng, trang sách hồng ước mơ, thầy cô cho em mùa xuân từ bên kia mái trường đang tổ chức lễ kỉ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11 là lòng tôi lại xao xuyến bùi ngùi nhớ lại những kỉ niệm ngày nào – còn là một cậu học sinh nghịch ngợm. Nhất là kỉ niệm về một lần bị ốm và cô Hạnh – chủ nhiệm năm lớp 5 đã đến chăm sóc tôi.

     Cô Hạnh là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi. Cô có mái tóc dài đen bóng, khuôn mặt trái xoan, làn da ngăm ngăm vì lửa đạn chiến trường. Chiếc nón lá, tấm áo bà ba và chiếc xe đạp thống nhất cũ là tất cả. Những gì dung dị nhất trong cô mà mỗi chúng tôi cảm nhận được. Nghe bố mẹ tôi kể lại, trước kia cô là thanh niên xung phong, do bị thương nên cô được về địa phương. Bắt đầu từ đó cô đi học lớp tại chức và trở thành giáo viên. Do hoàn cảnh nên cô không thể có con. Vì thế cô coi chúng tôi như con đẻ của mình, chăm lo dạy dỗ chúng tôi tận tình chu đáo. Cô thường hay kể chuyện những ngày kháng chiến cho chúng tôi nghe. Cô là bạn của bố mẹ tôi nên cũng hay đến nhà tôi chơi. Tôi vốn là cậu học trò hiếu động, nghịch ngợm nhưng lại yếu. Chẳng vậy mà bạn bè gọi tôi với cái tên “sóc con” rất hồn nhiên, ngây thơ nhưng lại đầy cá tính. Vì lần ấy bố mẹ tôi phải lên Lạng Sơn nên để anh em tôi ở nhà. Trước khi đi, bố mẹ tôi còn nhờ cô thỉnh thoảng đến chơi và trông nom giúp tôi. Mùa hè đã bắt đầu với cái nắng chói chang, nóng bức. Vốn là người thích bóng đá nên tôi chơi suốt cả buổi trưa cùng các bạn mà không đội mũ, nón. Chiều về tôi đã bị ốm. Nghe bạn tôi kể, buổi chiều hôm đó thấy tôi không đi học, cô đã hỏi các bạn và biết tôi bị ốm. Sau buổi học cô đã đến nhà tôi, thấy tôi nằm trên giường, cô khẽ bước đến:

–  Nam, em có mệt lắm không? Cô đã bảo đi ra ngoài phải đội mũ, đội nón vào rồi mà lại không nghe…

     Tôi hiểu rằng cô nói vậy thôi chứ cô thương tôi lắm. Đã từ lâu cô coi tôi như con của mình. Tôi ốm thế này chắc cô buồn lắm. Cô nhìn tôi với ánh mắt trìu mến. Lúc bấy giờ, nhìn cô tôi củng thấy nghẹn ngào và khẽ cất tiếng:

– Em xin lỗi cô, em không sao ạ, một lát là khỏi thôi.

     Cô đưa tay vuốt lên mái tóc tôi. Dường như tôi có cảm giác ấm áp đến khó tả, rưng rưng, nồng đượm. Cô lấy thuốc cho tôi uống và bảo tôi nằm xuống để cô đi nấu cháo.

     Hàng ngày, đôi bàn tay gầy gầy ấy thường nắn nót viết trên bảng dòng chữ: Tập đọc, hay bắt tay bầy trẻ thơ rèn chữ, thì nay, lại khéo léo nhẹ nhàng vuốt ve một cậu học trò, như người mẹ gần gũi với con. Cô đưa bát cháo cho tôi và ngắm nhìn tôi ăn. Chao ôi! Phải chăng đó là tình cảm chân thành cao cả của một người đã chở bao chuyến đò, đưa bao người con của quê hương sang sông đang trao cho đứa con này tất cả sự trìu mến thiêng liêng đến thế. Trong ánh mắt ấy, cả tình yêu thương con trẻ, và bao mong mỏi chờ đợi. Tất cả những câu hỏi đó dồn dập xuất hiện trong tôi khiến tôi xao xuyến, xúc động. Cô ngồi cạnh tôi như người mẹ hiền đứng nhìn đứa con thơ dại đang ngủ say trong giấc mơ hồng.

     Hôm sau, tôi đỡ hơn và đi học. Vừa bước vào lớp, cô đã hỏi tôi:

–   Nam, em đã khỏi hẳn chưa?

     Tôi đứng lên rụt rè:

 – Thưa cô, em đã đỡ nhiều rồi ạ!

     Cô cho tôi ngồi xuống và nhắc nhở cả lớp:

     Bây giờ đang là mùa hè, trời rất là nóng, nắng gắt. Vì vậy các con đi đâu cũng phải đội mũ vào; mà đừng có đá bóng vào buổi trưa. Các con rõ chưa?

     Cả lớp chúng tôi đồng thanh:

– Dạ, thưa cô chúng con nhớ rồi ạ!

Và thế là bài giảng bắt đầu. Ngồi trong lớp, tôi cố gắng lắng nghe những gì cô nói. Giờ đây tôi mới cảm thấy cái giai điệu ngọt ngào trong bài giảng của cô. Nó giống như giọng mẹ tôi khi kể chuyện cho tôi nghe.

    Từ đó, tôi hay sang nhà cô chơi, giúp cô một số công việc nhà, hỏi cô cách làm bài toán khó hay một bài văn hay.

     Chắc sẽ chẳng bao giờ tôi quên được cô, người đã cho tôi những hành trang kiến thức, đạo làm người ngày hôm nay. Vì chúng tôi, cô đã hi sinh cả cuộc đời làm nghề giáo, dìu dắt lớp măng non của đất nước vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người. Các thầy cô giáo đã chắp cánh ước mơ cho chúng tôi bay vào đời. Và chúng tôi nguyện sẽ mãi cống hiến, noi gương các thầy cô.

      Cô là người mẹ thứ hai của tôi, như ngọn đèn soi sáng cho chúng tôi mỗi bước đi. Những bài học cô dạy như hành trang giúp tôi vững vàng bay vào đời và chắc rằng tôi sẽ không bao giờ quên được cô với những kỉ niệm ấy. Nó là điểm tựa cho tôi ngày hôm nay tiếp bước theo “sự nghiệp trồng người” vĩ đại, là kỉ niệm hằn sâu trong kí ức tôi.

Đề 4: Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12). Trong buổi gặp đó, em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ về tình cảm trách nhiệm của thế hệ sau đối với thê hệ cha anh đi trước.

     Trong chúng ta chắc hẳn ai cũng biết ngày 22-12 là ngày gì. Và ngày này có ý nghĩa lịch sử rất lớn đối với dân tộc, với đất nước và với mỗi con người Việt Nam chúng ta. Nó không chỉ trở thành ngày lễ của các chú, các bác trong quân ngũ mà nó còn là ngày vui chung của mọi người trên đất nước Việt Nam.

     Để kỉ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, giáo dục học sinh truyền thống lịch sử lâu dài của dân tộc, trường em đã tổ chức một buổi tham quan Viện Bảo tàng Quân đội. Chuyến đi này đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc và nhiều bài học lí thú, bổ ích. Hơn thế nữa, trong buổi tham quan này, chúng em đã được vào Phòng Truyền thống của Viện bao tàng, gặp gỡ những con người đã đi vào lịch sử dân tộc: Đại tá Bùi Quang Thận – người trực tiếp lái xe tăng tiến thẳng vào Dinh Độc lập Ngày 30-4; Đại tá Lê – người trực tiếp kéo cờ trong ngày Quốc khánh 2-9.

     Cuộc trò chuyện thật là vui vẻ, bổ ích. Chúng em quây quanh hai bác.

     Gương mặt ai ai cũng hớn hở lạ thường; bởi trong lòng mỗi người đều có niềm hãnh diện đã được gặp mặt những người anh hùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Linh Hương – lớp trưởng đứng lên thay mặt cả lớp hỏi thăm sức khỏe của các bác. Nhìn những tấm huân chương sáng lấp lánh trên ngực áo, em thấy một phần công lao của các bác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Bác Lê dịu dàng hỏi:

– Thế nào, các cháu khỏe chứ? học tập ra sao?

– Có ạ, có ạ! Học kì một, lớp cháu hầu hết đều được học sinh giỏi, hạnh kiếm tốt đấy bác ạ. – Cả lớp nhao nhao.

– Thế là rất tốt, rất tốt. Các cháu đã thực hiện tốt năm điều Bác Hổ dạy, ngoan lắm! Bác Lê gật gù:

     Bây giờ các cháu muốn hỏi gì nào?

     Một loạt cánh tay giơ lên nhưng Quý nhanh nhảu giơ tay lên trước:

– Bác ơi! Tại sao có ngày 22-12 ạ?

     Bác Thận gật đầu, mĩm cười rồi trả lời:

– Thế này cháu ạ! Vào ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ta ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Không khí lúc bấy giờ sôi sục trong tất cả các khu căn cứ. Chính bác cũng cảm nhận được bầu không khi bận rộn. Tình hình thời cuộc lúc này rất khẩn trương, vào khoảng tháng 10-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ “Phe xâm lược gần đón ngày bị tiêu diệt… Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”. Sau đó, theo chỉ thị của Cụ Hồ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ngày 22- 12-1944 nhằm phát động phong trào đấu tranh cả chính trị và quân sự để thúc đẩy quá trình cách mạng tiến lên mạnh mẽ hơn nữa. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần. Từ đó ngày 22-12-1944 đã trở thành ngày truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Các cháu đã rõ chưa nào?

     Bây giờ thì em đã hiểu xuất xứ ngày 22-12 qua lời kể của bác Thận, hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc và đặc biệt là các chú, các bác trong quân đội. Càng hiểu nơi bắt đầu thì càng phải trân trọng, càng cần phải khắc ghi nó vào tiềm thức. Đó cũng là việc làm thể hiện lòng biết ơn của mình đối với các bậc tiền bốì đã hi sinh để ngày lễ này càng có ý nghĩa và sâu sắc.

     Kế tiếp là câu hỏi của Trang dành cho bác Lê:

– Thưa bác? Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường lịch sử Ba Đình, bác là người trực tiếp kéo cờ Việt Nam lên cột cờ trong lúc mọi người hát Quốc ca. Cho cháu hỏi: Tâm trạng của bác lúc ấy như thế nào ạ?

– Đúng là lúc ấy bác giữ trọng trách nặng nề. Bác vừa mừng lại vừa lo. Các cháu có biết vì sao không? Mừng vì bác là người trực tiếp kéo cờ trong một buổi lễ hết sức quan trọng; rất vinh dự và tự hào. Lo là vì phải kéo cờ làm sao cho vừa hết bài Quốc ca thì cờ cũng phải kéo lên đỉnh cột cờ. Trong lúc đang kéo cờ thì bác có một cảm xúc rất khó tả nhưng vô cùng mãnh liệt: Sự xúc động đã lấn át trái tim bác. Lòng bác như muốn nói thật to: Việt Nam tự do! Việt Nam độc lập! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.

     Khuôn mặt bác thể hiện rõ nỗi xúc động cứ đan xen vào nhau. em thấu hiếu rằng ngày 2 -9 có ý nghĩa cực kì to lớn trong mỗi con người Việt Nam, làm đẹp thêm tâm hồn con người và làm vẻ vang thêm trang sử hào hùng của dân tộc Việt. Khuôn mặt mỗi thành viên của lớp 9A6 cũng khác nhau. Có người bộc lộ nét tươi tắn, sung sướng, hãnh diện và tự hào vì đất nước ta đã giành chiến thắng từ tay thực dân Pháp bằng rất nhiều nỗ lực phi thường, cũng có bạn vẻ mặt trầm tư, suy nghĩ. Có lẽ bạn đang nghĩ, để có được hòa bình, độc lập như hôm nay, dân tộc ta đã đổ không biết bao nhiêu xương máu, bao con người đã ngã xuống cho Tổ quốc quyết sinh.

     Sau đó, bác Thận lại kể cho chúng em nghe về chiến thắng lịch sử ngày 30-4. Nhờ có lời kể của bác mà chúng em biết được chiến thắng lẫy lừng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và sự giúp đỡ to lớn của bạn bè năm châu.

     Chính lúc này đây, em thật sự cảm động. Sự biết ơn, niềm tự hào, một chút hãnh diện, một chút hổ thẹn đã tạo nên trong lòng em một cảm xúc khó tả. Em đứng lên phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của mình.

     Cháu xin thay mặt cho các bạn ngồi đây có đôi lời phát biểu. Thế hệ chúng cháu may mắn sinh ra đã được hưởng một nền hòa bình. Chúng cháu biết, để có được ngày hôm nay, cả dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều. Chúng cháu rất biết ơn các bác, những người đã hi sinh biết bao công sức và xương máu để bảo vệ đất nước. Chúng cháu hứa nguyện sẽ nỗ lực rèn luyện, học tập và tu dưỡng đạo đức để mai sau xây dựng đất nước vững mạnh hơn. Và ngày mai bắt đầu từ ngàv hôm nay. Ngay bây giờ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng cháu sẽ cố gắng học tập tốt, để khi vào đời góp phần đưa nước ta sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Chúng cháu sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống mà cha anh đi trước để lại. Cuối cùng, cháu xin chúc các bác một sức khỏe dồi dào để công tác tốt.

    Em vừa kết thúc câu nói, một tràng pháo tay rộn rã vang lên. Tiếp theo, chúng em cùng các bác đi thăm Viện Bảo tàng. Vừa đi, các bác vừa giảng giải cho chúng em về truyền thống yêu nước của dân tộc ta. Trời gần trưa, ánh nắng bắt đầu gay gắt, chúng em luyến tiếc chia tay các bác để lên xe ô tô trở về trường.

    Buổi ngoại khóa tuy kết thúc nhưng đã để lại trong lòng chúng em biết bao cảm xúc. Đối với riêng em, đây là một dịp để nói lên những suy nghĩ của mình với thế hệ cha anh đi trước, tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng hơn.

     Xe dừng bánh,cả doanh trại bộ đội rộng lớn,sạch sẽ,ngăn nắp hiện ra trước mắt.Hội trường trang hoàng lộng lẫy,các bác các chú quân phục chỉnh tề,gương mặt rạng rỡ,tự hào.Chúng em quây quanh các chiến sỹ áo xanh,mặt các bạn hớn hở, hãnh diện lạ thường!Chúng em hỏi các chú nhiều chuyện lắm,cả về lịch sử ra đời ngày 22/12 nữa.Giờ thì chúng em đã biết:Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12 /1944.Ngay sau đó đội đánh thắng 2 trận liên tiếp tại Phăy Khắt,Nà Ngần…Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành QĐND Việt Nam.Và từ đó lấy ngày 22/12 làm ngày truyền thống.Bây giờ thì em đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22/12,hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta.Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức đển nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường…

     Chúng em còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng,hào hùng của những người lính cụ Hồ,về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược,những gian khổ hy sinh không thể diễn tả bằng lời.Đến thời bình,bộ đội đâu đã hết nguy nan:Những đêm tuần tra lạnh run người khi truy bắt tội phạm chống lại những lực lượng thù địch phá hoại từ bên ngoài,những lúc giúp dân chống thiên tai,lụt lội…Nhìn gương mặt rắn rỏi,xạm đen vì nắng gió,nghe những câu chuyện kể và chứng kiến vẻ bình thản của những chiến binh,em thật sự thấy rất cảm động xen lẫn cả niềm tự hào,biết ơn sâu sắc…Trong dòng cảm xúc khó tả,ấy em lại được vinh dự thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình:“Kính thưa các bác ,các chú ,chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng.Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay,dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều,bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hy sinh cho Tổ quốc.Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đối với cha anh,chúng cháu hứa sẽ nỗ lực học tập,rèn luyện,tu dưỡng để trở thành những công dân có ích,góp phần nhỏ bé của mình xây dựng đất nước.Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quí cuả dân tộc,xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ cha anh.”Em ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn còn run,trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì .

     Ánh nắng đã nhạt dần,chúng em chia tay với các bác,các chú trong lưu luyến.Buổi gặp gỡ đã khơi dậy những ước mơ trong em,tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin của em vào một tương lai tươi sáng.

Giaibaitap.pro.vn

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung giải trí học tập và các kiến thức thú vị khác tại đây.

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web