“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà nội. Tố Hữu đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, đối với quê hương cách mạng. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài thơ Việt Bắc. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về Việt Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:
” Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh rao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nêu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc lại không thể tách rời cái đẹp của con người Việt Bắc. Vì vậy, như một cặp song hành đối xứng, hễ nhớ dến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.
Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở Việt Bắc. Trong nền thơ ca và văn học Việt Nam, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ”trông bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ”buồn trông” trong “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong Việt Bắc, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.
Bước vào khung cảnh mùa đông Việt Bắc, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.
Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
” Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
(-Theo chân Bác- Tố Hữu)
Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.
Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của Tố Hữu. Đọc câu thơ lên ta có thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng Việt Bắc. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khuơng Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.
Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì lần này, con người Việt Bắc hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.
Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình cảm chân thành , tha thiết.
Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người Việt Bắc cũng hiện lên trong dáng vẻ lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả, vẻ đẹp của con người chân chính gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.
Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rỡ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. Mùa thu với ánh trăng huyền ảo, trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:
” Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(-Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)
Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.
Bức tranh có buối trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng. Mùa nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài hòa, cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xa là thiên nhiên, mảng gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.
Nguồn Tìm Đáp Án