Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông SGK Ngữ văn 11 tập 1 Chân trời sáng tạo – chi tiết

Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kể về một dòng sông thơ mộng mà thiên nhiên dành tặng riêng cho xứ Huế mộng mơ. Dòng sông Hương hiện lên lúc hoang dại như một cô gái Digan, lúc lại rất trữ tình và thơ mộng.

Nội dung chính

Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kể về một dòng sông thơ mộng mà thiên nhiên dành tặng riêng cho xứ Huế mộng mơ. Dòng sông Hương hiện lên lúc hoang dại như một cô gái Digan, lúc lại rất trữ tình và thơ mộng.

Trước khi đọc 1

Câu 1 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Bạn đã biết gì về Huế? Hãy chia sẻ với các bạn về điều đó.

Phương pháp giải:

Dựa vào các bài báo, bộ phim tài liệu và kiến thức đã học hoặc đã xem, chia sẻ các nội dung bạn biết sau đó rút ra điều bạn cảm thấy thú vị nhiều nhất ở Huế.

Lời giải chi tiết:

– Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước và trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Huế đã được Trung ương xác định là đô thị loại I, là Thành phố di sản văn hóa thế giới, một trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc, là thành phố Festival của Việt Nam.

– Thành phố Huế là kinh đô phong kiến cuối cùng của Việt Nam, vốn có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời với những giá trị và bản sắc độc đáo.

– Các giá trị di sản văn hóa nơi đây thể hiện những nét riêng hấp dẫn của một vùng văn hóa, vừa mang tính đặc thù – bản địa, vừa mang tính dân tộc – phổ biến, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các nền văn hóa Á Âu.

– Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam dưới triều Tây Sơn (1788–1801) và triều Nguyễn (1802–1945).

– Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hóa – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung – Tây Nguyên và cả nước.

– Khung cảnh và thiên nhiên mang vừa mang vẻ đẹp mộng mơ vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ.

Một số thông tin cơ bản về Huế như:

– Huế là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam

– Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam dưới triều Tây Sơn và triều Nguyễn

– Những địa danh nổi bật là sông Hương và những di sản để lại của triều đại phong kiến, Thành phố có năm danh hiệu UNESCO ở Việt Nam: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016).

Trước khi đọc 2

Câu 2 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, bạn dự đoán gì về nội dung của văn bản?

Phương pháp giải:

Dựa vào nhan đề và đặc điểm của sự vật được minh họa trong ảnh – dòng sông Hương – địa điểm nổi tiếng ở Huế, nêu ra nội dung và ý nghĩa của văn bản được đề cập.

Lời giải chi tiết:

Dựa vào nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông và hình ảnh về dòng sông Hương được khắc họa trong ảnh làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Hương. Từ câu hỏi tu từ ngay ở nhan đề đã tạo dấu ấn nơi trái tim người đọc về vẻ đẹp cổ kính, kì bí nhưng đậm chất lãng mạn của dòng sông nơi vùng đất cố đô.

Nhìn vào nội dung và hình ảnh em đoán nội dung văn bản nói về vẻ đẹp sông Hương của Huế.

Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, em dự đoán văn bản sẽ viết về dòng sông Hương và cảnh vật trong bức tranh.

Trong khi đọc 1

Câu 1 (trang 12 SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Đoạn văn này miêu tả khúc sông nào của sông Hương? Nét đẹp riêng của khúc sông này là gì?

Phương pháp giải:

Xem lại đoạn văn mở đầu và suy luận vẻ đẹp độc đáo của đối tượng cần phân tích.

Lời giải chi tiết:

– Đoạn văn này miêu tả khúc sông Hương ở thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.

+ Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”

→ Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.

– Đoạn văn này miêu tả khúc sông ở thượng nguồn:

+ Trong đại ngàn Trường Sơn, sông Hương được so sánh “là một bản trường ca của rừng già” với nhiều cung bậc: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”

+ Sông Hương được ví như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.”

Đoạn văn này miêu tả khúc sông thượng nguồn của dòng sông Hương.

Nét đẹp riêng của khúc sông này là:

*“Một bản trường ca của rừng già” mang đậm vẻ hào hùng, tráng lệ và sôi nổi:

– Vẻ hùng vĩ với hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”.

– Vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

 Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

*Dáng vẻ của một người con gái Di-gan:

– “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”.

– Làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.

*“người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”:

– Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.

– Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.

→ Mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô bao đời nay.

Trong khi đọc 2

Câu 2 (trang 13, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Bạn hình dung như thế nào về hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này?

Phương pháp giải:

Xem lại đoạn văn, thông qua các chi tiết liên tưởng để hình dung về vẻ đẹp của sông Hương.

Lời giải chi tiết:

Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…

→ Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.

Hình ảnh sông Hương ở đoạn này mang một nét đẹp dịu dàng và trí tuệ.

Hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này: Sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu vừa e lệ ngại ngùng, vừa táo bạo chủ động. Sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình “thành phố tương lai” của mình “như một cuộc tìm kiếm có ý thức”.

Trong khi đọc 3

Câu 3 (trang 14, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Nêu tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này.

Phương pháp giải:

Đọc lại đoạn văn và nêu nét tình cảm nổi bật của tác giả.

Lời giải chi tiết:

Tình cảm của tác giả đối với dòng sông Hương được cảm nhận bằng các giác quan với sự tinh tế và nhạy cảm của một người nghệ sĩ – vừa là một họa sĩ tài ba vừa là một nhạc sĩ rung cảm đắm say trước cái đẹp của sông Hương. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.

Qua đoạn văn này tác giả muốn thể hiện nỗi nhớ thương da diết về vẻ đẹp lặng lờ yên ả của sông Hương.

Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính là tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông.

Trong khi đọc 4

Câu 4 (trang 14, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Bạn hiểu gì về mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn “Quả đúng như vậy…của những mái chèo khuya”?

Phương pháp giải:

Đọc lại đoạn văn chứa câu văn trên và phân tích mối quan hệ, sự liên quan giữa 2 đối tượng cần phân tích

Lời giải chi tiết:

Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó hấp dẫn nhưng rất kín đáo.

Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.

Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận.

Sông Hương và Huế có một mối quan hệ gắn bó, khăng khít với nhau. Nền âm nhạc cổ điển Huế được bắt nguồn từ những cảm hứng của người nghệ sĩ trên chính dòng sông này.

Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. • Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới ->nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.

Trong khi đọc 5

Câu 5 (trang 15, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Bạn hiểu như thế nào về hình ảnh “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” trong đoạn văn này?

Phương pháp giải:

Đọc lại đoạn văn và phân tích hình ảnh

Lời giải chi tiết:

Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông” không khó để nhận thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử qua hình ảnh “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Thật vậy, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử. Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc. Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng.

Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp hùng tráng, vẻ vang, bởi nó gắn bó với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta (tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Nam của nước Đại Việt, soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ vào thế kỉ 18, sống bi tráng cùng những cuộc khởi nghĩa thế kỉ 19, đi vào thời đại CMT8 và lập bao chiến công qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ).

Sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiểu sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân, và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng dáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chận đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.

Tác giả gọi sông Hương là thiên “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẵn sàng hiến mình để làm nên những chiến công hiển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vần rất đỗi trữ tình.

Sau khi đọc 1

Câu 1 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Thực hiện các yêu cầu dưới đây:

a. Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau (thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,…).

b. Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản.

c. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả qua một đoạn văn trong văn bản.

Phương pháp giải:

Đọc lại văn bản và thực hiện yêu cầu

Lời giải chi tiết:

a.

* Vẻ đẹp sông Hương về địa lý:

– Hành trình của dòng sông: nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gây tò mò cho người đọc với câu hỏi về nguồn gốc dòng sông và khi đi dọc theo quá trình đi khám phá dòng sông, tác giả cũng tìm thấy được cội nguồn của sông Hương:

+ Thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.

+ Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” → Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.

Sông Hương trở nên dịu dàng đến lạ khi chảy qua vùng núi rừng hiểm trở: “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, cứ thế êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi như thành quách, chảy qua các lăng tẩm đồ sộ, qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

→ Tất cả những gì thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Hương xứ Huế là tinh túy và tuyệt vời nhất để rồi dòng sông như trở thành “người mẹ phù sa” và mang trong mình vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.

+ Khi chảy đến giữa thành phố Huế, dòng sông bỗng dịu dàng, tĩnh lặng, lững lờ trôi thật chậm, in cả bóng cầu Tràng Tiền trông từ phía xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.

+ Xuôi về phía dưới Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa cùng màu xanh bao trùm của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng.

+ Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

 → Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay.

– Sông Hương và thiên nhiên xứ Huế: Tiếp bước theo dòng chảy của sông Hương, ta sẽ bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đẹp đến mê hồn:

+ Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian.

→ Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.

– Sông Hương và con người xứ Huế:

+ Thiên nhiên cùng dòng sông luôn đồng hành, gắn bó, gần gũi với con người. Tính cách con người xứ Huế được thể hiện qua dòng chảy sông Hương: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”.

+ Qua màu sắc không gian đất trời của Huế, màu sương khói ẩn hiện trên sông Hương, người con gái xứ Huế hiện lên qua ánh nhìn tinh tế của nhà văn với trang phục trang nhã, dịu dàng đậm chất người con gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”.

* Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên từ góc nhìn lịch sử:

– Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái “Di – gan man dại”, cũng không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”

→ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”.

– Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử:

+ Nhìn lại quá khứ để một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của dòng sông Hương trong những trang sử dân tộc. Từ thời đại Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong các giai đoạn trung đại của lịch sử, sông Hương với tên gọi Linh Giang, đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Dòng sông gắn liền với những chiến công của Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 và cùng đó là những chiến công vang dội rung chuyển non sông. Và sông Hương cùng rất nhiều di sản văn hóa Huế phải oằn mình gánh vác sứ mệnh đất nước dưới sự tàn phá của bom Mỹ…

→ Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử.

→ Quay về một thời quá khứ đạn bom oanh liệt, nhà văn thể hiện rõ niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, nhẹ nhàng nhưng đầy kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:

Trong góc nhìn tinh tế của nhà văn, sông Hương còn chất chứa một nền văn hóa phi vật chất.

– Sông Hương – dòng sông âm nhạc:

+ Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người…

+ Quan sát sông Hương, nhà văn đã nhiều lần liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào cũng đã từng có quãng thời gian sống ở đây, những trang Kiều đã được ra đời trên mảnh đất cố đô này.

→ Bóng dáng đại thi hào Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần được thể hiện trong bài kí thể hiện khả năng liên tưởng vô cùng phong phú, với vốn văn hóa sâu rộng cùng sự gắn kết với những thông điệp truyền thống.

Sông Hương – dòng sông thi ca

+ Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế.

+ Bên cạnh đó là một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…

→ Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ.

b. Cái tôi là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân (Ở phương diện khác, cái tôi là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Với văn học, cái tôi không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.

– Trong thể loại tuỳ bút, bút kí, cái tôi của người viết trở thành một hình tượng trung tâm và xuất hiện trực tiếp thành nhân vật tôi. Nếu trong truyện ngắn,  nhân vật tôi là hình tượng hư cấu thì trong kí, nhân vật tôi đồng nhất với tác giả. Sự hấp dẫn của thể loại này, xét đến cùng là là sự hấp dẫn của cái tôi tác giả.

Đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là:

*Một cái tôi uyên bác

– Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương.

– Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại.

*Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn

– Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng.

– Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú.

+ Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh…

+ Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau.

– Thể hiện  ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.

   + Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ).

   + Vốn ngôn ngữ phong phú.

   + Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ.

*Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.

– Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương.

– Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết.

– Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn.

→ Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường: lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

c. Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn.

Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. “… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

a. – Góc nhìn thiên nhiên:

+ Ở thượng nguồn: sông Hương vừa mang vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, bản lĩnh, tự do (một trường ca, rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, cô gái Di-gan, bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do, trong sáng) vừathơ mộng, trữ tình (dịu dàng và say đắm giữa…đỗ quyên rừng).

+ Ở ngoại vi thành phố: sông Hương mang nhiều vẻ đẹp phong phú như thơ mộng, trữ tình (người gái đẹp nằm ngủ mơ màng…đầy hoa dại); chủ động, mãnh liệt, duyên dáng với hành trình tìm kiếm tình yêu (chuyển dòng liên tục, vòng giữa, uốn mình, chuyển hướng, vòng qua, đột ngột vẽ, ôm lấy…); trầm mặc, cổ kính (Giữa đám quần sơn…như triết lí, như cổ thi); bình dị (mặt nước phẳng lặng…bát ngát tiếng gà).

+ Ở trong thành Huế: thủy chung, chỉ thuộc về một thành phố duy nhất là Huế; sông Hương mang vẻ đẹp tình tứ, duyên dáng, vui tươi của cô gái gặp người tình nhân mong đợi (kéo nét thẳng thực yên tâm, vui tươi hơn, uốn cánh cung rất nhẹ…tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu); có điệu chảy slow tình cảm dành riêng cho Huế.

– Góc nhìn lịch sử: chứng nhân lịch sử, gắn bó với mọi biến cố của Huế (dòng sông biên thùy thời vua Hùng, dòng sông viễn châu oanh liệt thời trung đại, dòng sông vẻ vang thời Nguyễn Huệ, dòng sông bi tráng thời kì cách mạng tháng Tám).

– Góc nhìn văn hóa: Sông Hương là cái nôi của âm nhạc cổ điển Huế; dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ (mang nhiều sắc thái khác nhau trong thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu…).

b. Một số từ ngữ, câu văn cho thấy cái tôi của tác giả trong văn bản là:

– “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”, “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”…

– “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

– “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”.

c. Đoạn văn tham khảo phân tích vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn:

Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Bằng biện pháp nhân hoá, sông Hương hiện ra tựa “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết cái vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Có thể nhấn mạnh sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính.

a, Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên, sông Hương cho thấy vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nó:  Sông Hương khi hùng vĩ ở thượng nguồn, khi lại êm đềm, mơ mộng ở kinh thành Huế. Sông Hương ở thượng nguồn vô cùng dữ dội, mãnh liệt, được tác giả ví như một cô gái Di gan, man dại và phóng khoáng. Khi về đến kinh thành Huế, sông Hương lại mang một khuôn mặt khác hẳn, nếu như thượng nguồn cuộn xoáy, mãnh liệt thì tới đây lại dịu dàng, tha thướt, đầy chất mộng mơ đặc trưng của xứ Huế. Dòng sông Hương, mềm hẳn đi khi bước chân vào kinh thành, những khúc uốn mình, những đường tròn của sông Hương bao quanh Huế đã khiến lòng sông thực sự mềm mại như một tấm lụa để ôm ấp lấy thành phố thân yêu của mình. Màu sắc của sông Hương thay đổi theo từng địa hình mà nó chảy qua: khi chảy qua lòng vực dưới chân núi Ngọc Tản, nước sông trở nên xanh thẳm, còn nhìn phản quang những màu sắc của ngọn đồi phía Tây Nam thành phố thì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến đổi đó cho thấy sông Hương như một tấm gương, đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình dạng, màu sắc, vẻ đẹp của sông Hương còn thể hiện qua sắc thái, với hai sắc thái chính là hung bạo và trữ tình. Khi sông Hương sôi nổi, trẻ trung, chủ động, lúc lại trầm mặc, cổ kính như triết lí, như cổ thi. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn hình muôn vẻ, đa dạng màu sắc. Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên dù ở thượng nguồn hay khi chảy trong lòng thành phố Huế, sông Hương đều chứng tỏ nó là sự sáng tạo hoàn mĩ của tạo hóa, một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng riêng cho đất Huế.

– Vẻ đẹp trong chiều sâu văn hóa: Trước hết sông Hương mang đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế. Dòng chảy cuộn chảy cũng như con người khỏe khoắn của xứ Huế, còn dòng chảy dịu êm lại là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người nơi đây. Chỉ với con sông này nhưng ta thấy đầy đủ tính cách, tâm hồn Huế, vừa mạnh mẽ táo bạo, vừa dịu dàng, sôi nổi, trẻ trung.
– Sau vẻ đẹp cốt cách, tâm hồn con người đất Huế, tác giả tiếp tục chứng minh chiều sâu văn hóa trên phương diện âm nhạc và thi ca. Dòng sông Hương trong lòng thành phố với tốc độ chậm rãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm, chính nhịp điệu này đã nói lên cái thần, cái hồn rất riêng của nhã nhạc cung đình Huế, đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn khai thác dòng sông Hương ở phương diện thi ca. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng, tác giả đã chứng minh vô cùng thuyết phục, sông Hương đã tạo nên dòng thi ca riêng cho văn học. Từ dòng sông lung linh biến ảo màu sắc tác giả đưa người đọc đến dòng sông sức mạnh khí thế trong thơ Cao Bá Quát. Từ không khí bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan tác giả lại đưa người đọc đến với dòng sông ân tình, thắm thiết trong thơ Tố Hữu. Bằng những dẫn chứng thuyết phục, đa dạng tác giả đã cho thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Hương.
Sông Hương ở bề dày lịch sử: Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là dòng biên thùy xa xôi của đất nước. Trong thời kì trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ quốc. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng Tám đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và sự đô hộ của Pháp… Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng hào hùng, hiển hách.

b, Một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện của cái ” tôi” của tác giả trong văn bản:  “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”.

c,  Trong đoạn 1: Con sông Hương ở thượng nguồn được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa với hai nét đẹp: mãnh liệt hoang dại nhưng cũng đầy dịu dàng và say đắm. Hành trình của Hương giang cũng giống như mọi con sông khác – bắt đầu từ thượng nguồn – nơi mà trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Quả là như vậy, con sông ở đây đã gắn liền với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Nó mang trong mình vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Phép tu từ so sánh kết hợp với động từ mạnh và lối điệp cấu trúc đã khiến con sông hiện lên giống như một bản nhạc giàu cung bậc của thiên nhiên. Nhưng bản trường ca ấy không chỉ hào hùng, mà vẫn mang nét trữ tình sâu lắng. Sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, con sống đã dần trở nên “dịu dàng” hơn, đằm thắm hơn để rồi có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đặc sắc nhất đó là vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dã của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Chúng ta đã biết đến những cô gái Di-gan là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ là những người thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Khi so sánh con sông với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Một vẻ đẹp tự do, phóng khoáng và đầy hấp dẫn.

Sau khi đọc 2

Câu 2 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Chỉ ra yếu tố tự sự, yếu tố trữ tình và tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên … chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Tìm và phân tích một vài đoạn khác trong văn bản có đặc điểm tương tự.

Phương pháp giải:

Đọc kĩ đoạn văn

Chú ý những yếu tố tự sự, trữ tình và nên tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó

Lời giải chi tiết:

Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của dòng sông thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu. Trước khi trở thành người chung thủy và dịu dàng như cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách với những núi Ngọc Trản, những đồi Tam Thai, Lựu Bảo, Thiên Mụ…, nhưng chính trong thủy trình gian truân ấy, qua cách miêu tả hài hòa và cái nhìn tình tứ của nhà văn, sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẻ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thân hình mềm mại, kiều diễm cho đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu.

Mỗi chặng đường của sông Hương gắn liền với một địa danh cụ thể, thân thuộc của Huế lại được nhà văn miêu tả theo một cách cảm nhận riêng độc đáo khiến hành trình về xuôi của sông Hương không chỉ được tái hiện chân thực theo dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình dung đó là một cuộc kiếm tìm bờ bến tình yêu của người con gái đẹp yêu kiều. Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ lên một hành trình sinh động, hấp dẫn của dòng sông. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương hiện ra như một cô gái đẹp mơ màng vừa bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài trong rừng sâu, vươn mình ra khỏi vùng núi thâm u, trầm mặc, bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi chuyển dòng liên tục, khi vòng đột ngột, khi uốn mình trong những đường cong thật mềm, khi vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực, đi giữa âm vang, trôi đi giữa hai dãy đồi… Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man của sông Hương, vừa mạnh mẽ với những dư vang của Trường Sơn  như còn phảng phất, vừa duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại, đầy nữ tính. Hành trình của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng dịu dàng, trí tuệ cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường giấu trong vẻ dịu dàng duyên dáng.

Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cách cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp của cảnh sắc đôi bờ sông: sông Hương như cô gái digan hoang dã sau khi ra khỏi những cánh rừng đại ngàn đã tự làm đẹp, làm mới mình trongmàu xanh thẳm của sắc núi Ngọc Trản; hiền dịu lượn quanh giữa những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên  mềm như tấm lụa; nhận lấy ánh phản quang của những ngọn đồi sớm mai, trưa vàng, chiều tím  để rực rỡ, kiêu sa;thấm vào lòng mình vẻ đẹp u tịch của rừng thông, vẻ đẹp trầm mặc… tỏa ra từ giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa thời Nguyễn trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ; tươi tắn khi gặp mênh mang tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và trời, như thực, như mơ.

* Đoạn văn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

– Yếu tố tự sự: giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực theo hướng tây nam – đông bắc; nơi cuối con đường là chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời.

– Yếu tố trữ tình: như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên; nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn như những vành trăng non.

→ Tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó là: Giúp cho câu văn trở nên trong trẻo, có hồn và có tình hơn; lột tả được hết những vẻ đẹp của sông Hương khi đi qua.

* Phân tích đoạn văn: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

– Yếu tố tự sự: Vùng châu thổ cùng sự tươi tốt, rầm rộ của rừng già với những cây cổ thụ ngàn năm cùng những ghềnh thác, đáy vực và cả rừng đỗ quyên đỏ rực.

– Yếu tố trữ tình: Châu thổ êm đêm, bản tình ca của rừng già, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng

→ Tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó là: Giúp cho câu văn trở nên đẹp đẽ, thơ mộng đi vào lòng người đọc, làm toát lên vẻ đẹp huyền bí, dịu dàng thơ mộng của sông Hương khi ở thượng nguồn.

Yếu tố tự sự: Khi giáp mặt với thành Huế liền uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;
Yếu tố trữ tình: Tặng cho Huế điệu chảy lặng lờ, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; dòng chảy ngập ngừng như muốn đi muốn ở…vấn vương của một nỗi lòng; Khi ra khỏi kinh thành còn quyến luyến quay trở lại gặp thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh.

→ Tác dụng của việc kết hợp hai biện pháp đó: Góp phần khắc họa vẻ đẹp của sông Hương một cách chân thực, sinh động nhất. Cách miêu tả sông Hương khi vào đến thành phố Huế cho thấy sự gắn bó, am hiểu và tình yêu mãnh liệt, bền chặt mà tác giả dành cho Huế, cho dòng sông.

Trong đoạn 1:

– Yếu tố tự sự: Sông Hương vùng thượng lưu được đặt trong mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở đây, sông Hương có một thủy trình gian truân nhưng từ đó nó bộc lộ vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, tràn đầy sức sống: “là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”

Yếu tố trữ tình: “như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”

 Đặc sắc trong lối viết ký của tác giả khi viết về sông Hương ở thượng lưu: hình ảnh hùng vĩ tuyệt đẹp, liên tưởng độc đáo, lối so sánh ví von độc đáo, sáng tạo và bất ngờ.

Sau khi đọc 3

Câu 3 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Phân tích tác dụng của một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản.

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản

Chú ý một số biện pháp tu từ và phân tích tác dụng

Lời giải chi tiết:

Trong cái nhìn của hội họa, dòng sông hiện ra đẹp thơ mộng như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị. Trước tiên bức tranh sông Hương hiện ra trong một nét thẳng thực yên tâm khi vào đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc gợi cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về tới thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ hành trình không mấy dễ dàng của dòng sông thân yêu trở về từ miền thăm thẳm xa xôi của những cánh rừng đại ngàn. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ: sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến và trong một liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng…“vâng”… không nói ra của tình yêu.Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông đã thực sự trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật lãng mạn, đắm say của Huế. Bức họa dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khói huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh…Với niềm hoài cổ của một nhà văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và thơ mộng tới những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm sương – những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường Đường đẹp thơ mộng và buồn âm u của Trương Kế: giang phong ngư hỏa đối sầu miên  (cây phong bên sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn –Phong kiều dạ bạc). Dòng sông Hương vẫn tiếp tục được vẽ trong hành trình miên man xa dần thành phố, nhưng sau đó đã đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông để gặp lại thành phố lần cuối… Khúc quanh ngập ngừng tình tứ của sông Hương được nhà văn liên tưởng tới nỗi vương vấn… và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nhìn dòng sông trong sắc thái nhân hóa ấy, nhà văn đã cho thấy nỗi vương vấn của tình yêu trong chính lòng mình dành cho sông Hương, cũng cho thấy cái nhìn lãng mạn của cái tôi tài hoa, tài tử, tài tình. Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Đó là màu xanh thẳm của chính dòng sông, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm hội trên sông, sắc màu lung linh phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi sớm xanh, trưa vàng, chiều tím đến những biển bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long, từ màu thanh khiết nõn nà của chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non đến sặc tối u sầu của vầng cổ thụ, ánh lập lòe xưa cũ của ngọn lửa thuyền chải, rồi lại màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc mơ màng sương khói của Cồn Hến… Sông Hương thực sự là một bức tranh với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.

– Biện pháp so sánh: “[…] sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”

Tác dụng: khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.

– Biện pháp nhân hóa: “[…] sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long […]”

Tác dụng: khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, gần gũi và thân thiết với con người.

– Các biện pháp tu từ trong văn bản  là: đối lập (tương phản), so sánh, nhân hóa.

– Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy là:

+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của dòng sông.

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.

Sau khi đọc 4

Câu 4 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm.

Phương pháp giải:

Đọc kĩ tác phẩm

Chú ý những yếu tố liên quan và nhận xét về cảm hứng chủ đạo

Lời giải chi tiết:

Cảm hứng thẩm mĩ là khả năng rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mĩ được nhận thức, là sự rung động của tâm hồn con người trải qua quá trình thụ cảm cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, trong cuộc sống.

Cảm hứng thẩm mĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? là sự ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế – con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô.

Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm được thể hiện rõ qua cảm hứng thẩm mĩ và văn phong của tác giả:

– Cảm hứng thẩm mĩ: Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, huyền ảo như đời sống tâm hồn của con người. Cảnh vật sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và cũng là của dân tộc = > thể hiện sự yêu mến, say mê vẻ đẹp đối với dòng sông, đất nước.

– Văn phong:

+ Ngôn ngữ uyển chuyển, giàu hình ảnh, phong phú, giàu chất thơ, sử dụng nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh…

+ Có sự liên tưởng diệu kì, sự phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.

+ Có sự kết hợp hài hòa của cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.

Sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu quê hương đất nước và tâm hồn phóng khoáng, tài hoa của người nghệ sĩ khiến con sông Hương hiện lên qua giọng điệu mềm mại, ngọt ngào, đậm chất Huế.
Sự liên tưởng đa dạng, phong phú với vốn kiến thức được tổng hợp trên nhiều lĩnh vực khiến sông Hương như một sinh thể trữ tình với tâm hồn nhạy cảm, với hành trình từ thượng nguồn trở về với Huế mà mỗi bước đi là một bước trưởng thành để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại đã trở thành một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
Ngôn ngữ rất tinh tế, tài hoa với những hình ảnh được chọn lọc, giàu sức gợi hình, gợi cảm, giàu sức liên tưởng làm ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế – con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô

Sau khi đọc 5

Câu 5 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Theo bạn, vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản hay không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản, đưa ra ý kiến của bản thân và nêu lý giải hợp lý

Lời giải chi tiết:

Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ. Với tâm hồn lãng mạn và một giọng văn đậm chất trữ tình, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đắm say ngắm nhìn dòng sông Hương yêu dấu và nhận ra rằng dòng sông ấy giống như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.  Người tài nữ ấy đã đánh thức tâm hồn nhà văn, đánh thức những tâm hồn Huế và những tâm hồn yêu Huế hết mực bằng những điệu nhạc êm dịu, mê đắm lòng người.

Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Những câu văn tiếp theo là lời giãi bày chân thành của nhà văn với những tâm hồn đồng điệu. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”.  “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.

Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.

Mảnh đất Huế thơ ngày nay được nhiều người biết đến và lỡ yêu, lỡ thương bởi nhiều nét đẹp trong nó, nào là vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, nét đẹp tâm hồn Huế và cả những nét đẹp văn hóa Huế. Đâu phải mấy ai cũng nhận ra rằng, những nét đẹp văn hóa ấy đã được ươm mầm, vun đắp từ “dòng phù sa mượt mà” của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” – theo như cách nói của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu đã được thể hiện tiếp trong phần còn lại của văn bản dựa vào đoạn văn “Có một dòng thi ca… tác giả “Từ ấy””.

– Không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”,… “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.

Theo em, vai trò của sông Hương trong tư cách ” người mẹ phù xa của một vùng văn hóa xử sở” được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản. Dựa vào việc nhà văn đã nhắc lại vai trò của sông Hương, điều đó thể hiện qua hai đoạn văn sau: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy”

– Hình ảnh sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” được thể hiện ở việc sông Hương là dòng sông gắn liền với những nét văn hóa Huế ta có thể cảm nhận được trong hai đoạn trích: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy””. Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ.

– Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sinh thành và đắp bồi, nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc Huế, đó phải chăng chính là vai trò của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” theo cách nghĩ, cách cảm và cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường.  Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Nhà văn dẫn đưa tâm hồn người đọc đến với “tiếng nước rơi bán âm”, một âm thanh trong trẻo gợi về một đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng trên dòng sông Hương. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.

–  Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đoạn trích viết về những hình ảnh này, nhà văn còn nhắc đến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Những âm thanh, nhạc điệu đong đầy xúc cảm ấy lại tiếp tục gợi nhắc về “Tứ đại cảnh” – bản nhạc cổ Huế, theo tương truyền là do vua Tự Đức sáng tác.

Sau khi đọc 6

Câu 6 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1):

Việc tác giả có những phát hiện đặc biệt về sông Hương đã đem đến cho bạn bài học gì về cách quan sát, cảm nhận cuộc sống xung quanh?

Phương pháp giải:

Dựa vào những kiến thức đã học, nêu những bài học rút ra được của bản thân

Lời giải chi tiết:

Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bị tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.

Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho em yêu thêm dòng sông và muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Việc tác giả có những phát hiện đặc biệt về sông Hương đã đem đến cho người đọc bài học về cách quan sát và cảm nhận về cuộc sống xung quanh: cái nhìn từ những góc độ khác nhau: địa lí, lịch sử, văn hóa… sẽ mang đến cho chúng ta góc nhìn với những vẻ đẹp và cảm nhận khác nhau mới lạ cùng nhiều những cung bậc cảm xúc về diện mạo, tâm tình…

Nếu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thì quan sát là chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn ấy từ bên trong để nhìn ra ngoài một cách trọn vẹn. Sáng mai thức dậy, hãy thôi nhìn mà thay vào đó là quan sát. Quan sát để lắng nghe, quan sát để cảm nhận, quan sát để thưởng thức những hương vị mà bạn đã lãng quên bấy lâu nay. Quan sát bằng cả tấm lòng, bằng tình yêu thương đối với cảnh vật, con người xung quanh.

Bài tập sáng tạo

Sáng tác một bài thơ, vẽ một bức tranh,… về hình tượng sông Hương (hoặc về sông núi quê hương của bạn).

Phương pháp giải:

Dựa vào tìm hiểu và kiến thức của bản thân

Lời giải chi tiết:

Học sinh có thể sáng tác bài thơ hoặc vẽ tranh về sông Hương. Ví dụ tham khảo:

– Thơ:

Chiều Hương Giang (1981) – Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa,

Có thể mây cao, có thể nắng vàng,

Cơn gió thổi những buổi chiều chưa tới

Tóc bao người bay rợi cả không gian…

Nhưng chiều nay, con bò gặm cỏ,

Bên dòng sông, như chưa biết chiều tan.

Tôi với nó lặng im, bè bạn

Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang.

Những buổi chiều, những buổi chiều quê hương,

Tôi đã sống và tôi chưa được sống,

Nhưng chiều nay, vô tình trong nắng muộn,

Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang…

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung học tập, giải trí và các kiến thức thú vị khác tại đây. Chúc các bạn lướt web vui vẻ !

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web