Soạn bài Thần Trụ Trời

Bài soạn Thần trụ trời được tổng hợp bởi giaibaitap.pro.vn, giúp bạn soạn bài và học tốt ngữ văn 10, có tác động tích cực đến kết quả học tập văn lớp 10 của bạn, bạn sẽ có những lời giải hay, những bài giải sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, đạt điểm tốt.

hướng dẫn soạn bài Soạn bài Thần Trụ Trời

* Trước khi đọc:

Câu hỏi (trang 13 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Bạn biết những truyện thần thoại nào? Hãy chia sẻ với các bạn trong nhóm về những truyện thần thoại ấy.

Trả lời:

Truyện Nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng đây là một truyện thần thoại của Việt Nam, giải thích đặc điểm của Mặt Trời và Mặt Trăng  và một số hiện tượng tự nhiên theo quan niệm dân gian.
Sự tích cây lúaĐưa ra sự lí giải về nguồn gốc về cây lúa theo góc nhìn dân gian.
Thần Trụ trờiĐây là một truyện thần thoại được lưu truyền khá sớm trong dân gian Việt Nam, giải thích sự hình thành của trời đất tự nhiên: biển, hồ, sông, núi, …

* Đọc văn bản:

1.  Tưởng tượng: Bạn hình dung như thế nào về vị thần Trụ trời?

Trả lời:

Đưa ra những hình dung về vị thần Trụ trời theo suy nghĩ của em:

– Ngoại hình: vóc dáng khổng lồ, chân dài, có thể bước từ vùng này qua vùng khác.

– Hành động: Ngẩng đầu đội trời lên, đào đất, đập đá, đắp thành một cái cột vừa cao, vừa to để chống trời.

=> Vị thần Trụ trời có sức vóc mạnh mẽ, kì lạ mà những người bình thường không thực hiện được.

 2. Tưởng tượng: Trời và đất thay đổi như thế nào sau khi có cột chống trời?

Trả lời:

– Khi có cột chống trời, trời và đất có những thay đổi :

+ Vòm trời đẩy lên mãi phía mây xanh mù mịt.

+ Trời đất phân đôi, chia tách.

+ Đất phẳng như cái mâm vuông, trời trùm lên như cái bát úp, chỗ trời đất giáp nhau gọi là chân trời.

3. Suy luận: Bạn có nhận xét gì về cách kết thúc truyện?

Trả lời:

– Truyện được kết thúc bằng một bài thơ gồm các câu hát dân gian về các vị thần xây dựng thế gian.

– Cách kết thúc truyện đặc biệt và độc đáo. Ở những câu hát, tác giả dân gian đã đưa ra liệt kê về các vị thần có công xây dựng thế gian theo lí giải của người xưa với câu kết Ông Trụ trời một lần nữa khẳng định, khắc ghi, đề cao công lao của thần Trụ trời trong việc tạo ra trời đất.

* Sau khi đọc:

Nội dung chính: 

Văn bản nói về cách tạo ra đất, trời, thế gian của thần Trụ trời và các vị thần khác. Cách lí giải dưới góc độ văn học dân gian và đầy sáng tạo, đề cao giá trị truyền thống.

Soạn bài Thần Trụ trời | Hay nhất Soạn văn 10 Chân trời sáng tạo

Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Chỉ ra các chi tiết về không gian, thời gian của câu chuyện.

Trả lời:

Chi tiết về không gianChi tiết về thời gian
Trời và đất Không cụ thể, mang tính khái quát.Thủa ấy, từ đó.Thời gian định tính, không cụ thể.

Câu 2 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Những dấu hiệu nào giúp bạn nhận ra Thần Trụ trời là một truyện thần thoại?

Trả lời:

– Dựa vào những dấu hiệu của thần thoại, không gian, cốt truyện, nhân vật trong Thần Trụ trời để xác định đây là một thần thoại.

+ Truyện kể về vị thần Trụ trời trong quá trình tạo ra thế giới, nguồn gốc của các sự vật và con người.

+ Không gian: trời và đất, vũ trụ đang trong quá trình tạo lập, không xác định nơi chốn cụ thể.

+ Thời gian: “Thủa ấy” cổ sơ, không xác định.

+ Cốt truyện: là chuỗi sự kiện xoay quanh quá trình tạo nên trời đất, các sự vật tự nhiên, là sự xuất hiện hành động của các vị thần.

+ Nhân vật: là các vị thần.

+ Câu chuyện là một tác phẩm thống nhất, toàn vẹn, các bộ phận, yếu tố, chi tiết…đều có ý nghĩa và được gắn kết với nhau một cách chặt chẽ, thể hiện một nội dung chung của bài.

Câu 3: (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Tóm tắt quá trình tạo lập nên trời và đất của nhân vật thần Trụ trời. Từ đó, hãy nhận xét về đặc điểm của nhân vật này.

Trả lời:

Tóm tắt quá trình tạo lập nên trời và đất của nhân vật thần Trụ trờiNhận xét về đặc điểm của nhân vật
– Tự đào đất, đập đá, đắp thành một cái cột vừa cao, vừa to để chống trời.– Có năng lực phi thường, ý chí.
– Thần hì hục đào, đắp, cột đá cao lên đẩy vòm trời lên mãi mây xanh.– Mạnh mẽ và tài năng.
– Khi trời cao và khô, thần phá cột, lấy đất đá ném tung đi khắp nơi à tạo ra hòn núi, hòn đảo, gò, đống, những dải đồi cao là mặt đất ngày nay thường không bằng phẳng.– Có công tạo ra đất trời.

Câu 4 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Nêu nội dung bao quát của truyện Thần Trụ trời.

Trả lời:

      Thần Trụ trời lí giải quá trình tạo lập thế giới, trời đất, các sự vật dưới bàn tay của Thần Trụ trời và các vị thần khác. Đây là một truyện thần thoại lí giải nguồn gốc sự xuất hiện của vũ trụ và các sự vật tự nhiên dưới góc độ dân gian.

Câu 5 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Nhận xét về cách giải thích quá trình tạo lập thế giới của tác giả dân gian. Ngày nay, cách giải thích ấy có còn phù hợp không? Vì sao?

Trả lời:

– Cách giải thích quá trình tạo lập thế giới của tác giả dân gian dựa trên trí tượng tượng, sáng tạo dựa vào sự quan sát tự nhiên chưa có đầy đủ căn cứ, không có minh chứng về độ chính xác, chứa đựng những yếu tố hư cấu.

– Ngày nay, với sự phát triển của khoa học thì cách giải thích ấy không còn phù hợp. Hiện nay nguồn thông tin về sự hình thành vũ trụ tự nhiên đã được khoa học nghiên cứu, có những căn cứ khoa học rõ ràng tin cậy và thuyết phục hơn so với những thần thoại dân gian chứa dựng yếu tố hư cấu.

Câu 6 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Cách hình dung và miêu tả đất, trời trong câu “đất phẳng như cái mâm vuông, trời trùm lên như cái bát úp…” trong truyện Thần Trụ trời gợi cho bạn nhớ đến truyền thuyết nào của người Việt Nam? Hãy tóm tắt truyền thuyết ấy và chỉ ra điểm tương đồng giữa hai tác phẩm.

Trả lời:

– Cách hình dung và miêu tả đất, trời trong câu “đất phẳng như cái mâm vuông, trời trùm lên như cái bát úp,…” trong truyện Thần Trụ trời gợi nhớ đến truyền thuyết “Sự tích bánh chưng, bánh dày” của người Việt Nam.

– Vua Hùng thứ sáu có hai mươi người con trai, cả hai mươi người con, ai cũng đều giỏi giang nên vua không thể lựa chọn được người sẽ nối nghiệp mình. Nhà vua luôn nói với những người con trai của mình rằng, người được lựa chọn không nhất thiết phải là con trưởng, người con nào làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương của mình thì sẽ được đức vua truyền ngôi cho.

– Các lang đều đua nhau sắm những lễ vật thật hậu, thật ngon và độc nhất vô nhị, đây đều là những sản vật được các lang cho người đi khắp nơi tìm kiếm chỉ với mong muốn lấy được lòng của nhà vua. Nhưng chỉ duy nhất có người con trai thứ mười tám của đức vua là Lang Liêu, chàng vẫn rất buồn vì chàng rất nghèo, chàng không có đủ tiền để tìm kiếm sản vật như các anh trai của mình được. Do ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà chàng không có của để, thứ duy nhất chàng có là lúa. Vì suy nghĩ quá nhiều mà chàng đã thiếp đi, trong giấc mơ, một vị thần đã bảo với chàng cách làm lễ vật. Tỉnh dậy, chàng lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, một loại bánh tròn tượng trưng cho trời, một loại bánh vuông, tượng trưng cho đất. Bánh tròn chàng đặt tên là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng. Nhà vua rất hài lòng về lễ vật của Lang Liêu dâng lên nên ngài đã quyết định nhường ngôi cho chàng.

       Cũng bởi vậy mà trong ngày tết cổ truyền của Việt Nam không thể nào thiếu 2 món bánh đơn giản nhưng đầy ý nghĩa trên bàn thờ tổ tiên.

Điểm tương đồng giữa hai tác phẩm:

– Đều đưa ra lí giải sự xuất hiện của một hiện tượng hay truyền thống.

– Xuất hiện hình ảnh vị thần, mang tính hư cấu, tưởng tượng như trời hình tròn, đất hình vuông.

– Thời gian và không gian không xác định.

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web