Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện trang 61 (ngắn nhất) kết nối tri thức

Câu 1 (trang 63, SGK Ngữ văn 10, tập 2) Chủ đề của Chữ người tử tù đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu nào?

Lời giải: 

Chủ đề của “Chữ người tử tù” đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu:

– “Sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái tài, cái đẹp đối với cái nhem nhuốc, tục tằn, của thiên lương đối với tội ác.”

– “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng: muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp, cái thiên tính tốt đẹp của con người (thiên lương).

Câu 2 (trang 63, SGK Ngữ văn 10, tập 2) Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt như thế nào?

Lời giải: 

Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách phân tích các nhân vật để làm minh chứng cho lý lẽ đưa ra.

Câu 3 (trang 63, SGK Ngữ văn 10, tập 2) Ý nghĩa của chủ đề và nhân vật được khẳng định như thế nào qua bài viết?

Lời giải: 

Chủ đề và nhân vật làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm, truyền tải thông điệp về nhân sinh quan, thế giới quan của tác giả.

* Thực hành viết 

Thực hành viết bài nghị luận đánh giá tác phẩm truyện (Chủ đề và nhân vật trong tác phẩm truyện)

Lời giải: 

  Thạch Lam là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn và cũng là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Ông được biết đến với tư cách là một nhà văn lãng mạn, nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực và thấm đượm tấm lòng nhân ái cùng niềm xót thương cho những con người nhỏ bé bất hạnh. Mỗi truyện ngắn của ông được ví như một bài thơ trữ tình đượm buồn và “Hai đứa trẻ” cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Tác phẩm thể hiện niềm xót thương chân thành và thấm thía của nhà văn với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, mòn mỏi trong phố huyện tăm tối, đồng thời thông qua nội dung tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, nâng niu với những mong ước khiêm nhường, nhỏ nhoi trong tâm hồn họ, đúng như câu văn đã khái quát được cả chủ đề của truyện: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.”

  Tác phẩm đã xây dựng bức tranh nơi làng quê chìm trong bóng tối. Ấn tượng đầu tiên gợi lên trong tâm trí người đọc về bức tranh phố huyện lúc trời tối chính là hình ảnh bóng đêm. Một bóng đêm khổng lồ rộng lớn trùm lên con người và cảnh vật: “Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối”, “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa.” Trong bóng tối bao trùm phố huyện vẫn thấp thoáng hiện ra ánh sáng, nhưng cũng chỉ là thứ ánh sáng rất đỗi nhỏ bé yếu ớt: ở một vài cửa hàng, cửa chỉ hé ra một vài “khe ánh sáng”; “quầng sáng thân mật” quanh ngọn đèn chị Tí; một “chấm” lửa nhỏ từ gánh phở của bác Siêu và cả “hột” sáng thưa thớt trong ngọn đèn nhà Liên lọt qua phên nứa. Có thể thấy ánh sáng vẫn còn rải rác trong không gian phố huyện nhưng nó le lói như chính cuộc đời, số phận của những người dân phố huyện. Trong tương quan giữa bóng tối và ánh sáng, ta thấy bóng tối bao trùm, ngự trì, dày đặc, còn ánh sáng thì nhỏ nhoi, mong manh đến tội nghiệp. Phải chăng đây đều là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng? Bóng tối gợi người ta liên tưởng đến sự nghèo đói, tù túng, bế tắc, còn ánh sáng chính là niềm tin, hy vọng, là ước mơ của con người.

“Bóng tối” trong tác phẩm còn là bóng tối của của cuộc đời biết bao con người nơi phố huyện. Mẹ con chị Tí ban ngày mò cua bắt tép, tối về dọn hàng nước, như một thói quen, khách hàng cũng quen thuộc, ngày qua ngày tẻ nhạt, nhàm chán, lặp lại trong mỏi mòn và đơn điệu, trong cái chép miệng ngán ngẩm: Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì. Bác Siêu cùng cái bóng “mênh mông ngả xuống…” gợi ra cảm giác về kiếp người cô đơn, lủi thủi, tội nghiệp. Gánh phở chẳng ăn nhập với phố huyện nghèo, nhưng bác cứ quẩn quanh và bế tắc trong mưu sinh như thế. Gia đình bác xẩm với những đứa con nhặt rác và âm thanh của tiếng đàn bầu buồn bã. Bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách, với cử chỉ ngửa cổ ra đằng sau uống một hơi cạn sạch cút rượu rồi từ từ đi lẫn vào bóng đêm… Cảnh hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ không chỉ thể hiện cảm giác sợ hãi mà còn bộc lộ nỗi xót thương, ái ngại cho một kiếp người tàn lụi đang hiện lên trước mắt. Liệu rồi đây nếu cứ mải quẩn quanh nơi phố huyện tù đọng nghèo khó này thì những người như chị Tí, như Liên có trở nên giống như cụ Thi điên hay không? Cuộc đời họ có tươi sáng hơn hay cũng chìm vào bóng tối như Thi điên tan biến vào bóng tối trước mặt Liên và An? Bản thân hai chị em Liên cũng đang sống trong một kiếp đời tàn. Mặc dù đang ở tuổi ăn tuổi lớn, cái tuổi hồn nhiên tươi vui nhưng cuộc sống của hai chị em ngày này qua ngày khác chỉ bó hẹp trong không gian phố huyện và trói buộc với một cửa hàng tạp hóa bé xíu để mưu sinh. Từ ngày bố bị mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về quê, cuộc sống của hai chị em không còn bất cứ niềm vui, hi vọng nào. Hình ảnh của cuộc sống tươi vui hạnh phúc nhiều màu sắc chỉ còn lại trong kí ức xa xôi mơ hồ.

“Chừng ấy người” sống chìm khuất trong bóng tối của sự khổ nghèo, mỏn mỏi, đơn điệu, tù túng. Nhưng họ vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Thông qua cảnh đợi tàu, Thạch Lam đã thắp sáng những ước mơ trong họ về một sự thay đổi. Đêm nào Liên và An cũng cố thức để đợi đoàn tàu từ Hà Nội đi qua phố huyện, không phải để bán hàng, mà để nhìn ngắm một hoạt động rộn ràng cuối ngày, một thế giới khác đi ngang qua. Khi tàu chưa đến, họ mong đợi, háo hức trông ngóng thấy chiếc đèn ghi, màu ngọn lửa xanh biếc và nghe thấy tiếng còi vang lại… Khi tàu đến, họ choáng ngợp, ngây ngất trước âm thanh rầm rộ của đoàn tàu, trước các toa đèn sáng trưng, những toa hạng sang lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh… Khi tàu đi xa, họ ngậm ngùi, nuối tiếc, nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo ở toa sau cùng, xa mãi rồi khuất lấp sau rặng tre…. Đoàn tàu ấy mang đến một thế giới khác: nếu phố huyện tàn tạ, tối tăm thì đoàn tàu sáng trưng và rực rỡ, nếu phố huyện tù đọng, ngưng trệ thì đoàn tàu náo nhiệt và sống động, nếu phố huyện xơ xác, nghèo khổ thì đoàn tàu sang trọng và giàu có. Sự khác biệt sâu sắc giữa hai thế giới đó là nguyên nhân của niềm khao khát đợi tàu của Liên và An. Cho dù đoàn tàu đến và đi rất nhanh, giống như một viên đá ném xuống ao tù chỉ đủ gợi lên một gợn sóng rồi mọi thứ lại trở về như cũ, đối với hai đứa trẻ, đó lại thực sự là những giây phút đáng sống nhất trong ngày. Nó là biểu tượng cho một thế giới thật đáng sống, biểu tượng cho ngày xưa, cho hạnh phúc, cho sung túc…

Qua tác phẩm nói chung và và cảnh đợi tàu nói riêng, người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của Thạch Lam đối với những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh đang bị lãng quên trong cuộc đời. Nhà văn đã trân trọng, nâng niu khát vọng vượt ra ánh sáng, thoát khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, không cam chịu hiện thực tầm thường, nhạt nhẽo đang vây quanh hai đứa trẻ. Phải yêu thương, thấu hiểu nhân vật biết bao, nhà văn mới để cho nhân vật của mình được tiếp tục ước mơ và khát vọng về một cái gì đó tươi sáng hơn, đẹp đẽ hơn trong cuộc sống nghèo khổ, trong cảnh tù đày tăm tối nơi con phố huyện nhỏ nghèo nàn.

Giaibaitap.me

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung học tập, giải trí và các kiến thức thú vị khác tại đây. Chúc các bạn lướt web vui vẻ !

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web