Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất

Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân
Suy nghĩ của em về nhân vật ông Ha
Mục lục

I. Dàn ý Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã ca ngợi về tinh thần cách mạng và lòng yêu nước đó của người dân Việt Nam, cụ thể là nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với quê hương và đất nước sâu sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát về nhân vật ông Hai:

– Truyện kể về ông Hai, một người yêu làng và gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về làng của mình

– Ông cứ kể say sưa trong niềm nhớ thương về làng mà không cần biết người nghe có chú ý hay không.

2. Tình cảm của ông Hai đối với làng chợ Dầu:

– Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.

3. Diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo Tây:

– Khi ông nghe tin làng mình theo Tây, “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được

– Ông hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã khi biết làng mình theo giặc

– Khi về nhà, ông nằm vật ra giường, đêm đó trằn trọc không ngủ được.

– Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.

– Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.

– Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước.

– Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chẳng làm được gì, chưa thể đối mặt với điều đó, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi

– Khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi bởi ông là người làng Chợ Dầu, ông thoáng nghĩ về lại làng nhưng ông đã gạt phăng đi, ông dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”

4. Niềm sung sướng và vui mừng khi biết làng không phải Việt gian:

– Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê, bởi đó là minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.

III. Kết bài:

– Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn: tác giả đã cho người đọc hình dung được một thời kì chống Pháp sôi nổi của nhân dân, tinh thần trung kiên với Cách mạng và một lòng theo Bác, kháng chiến đến cùng

  • Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai ta thấy được tình yêu làng sâu sắc và tình yêu nước thiết tha gắn với tinh thần kháng chiến của ông.

Bài văn mẫu số 1

Cách mạng tháng Tám thành công, ngòi bút tinh tường của Kim Lân về một vùng quê Bắc Bộ đã được dịp thăng hoa, ông trở thành một trong những nhà văn viết truyện ngắn hay nhất thời kỳ kháng chiến chống thực dân cứu quốc. Đề tài của ông gắn liền với những con người yêu nước, kiên trung và gan dạ. Tác phẩm “Làng” được Kim Lân viết năm 1948 – thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đã khắc họa nhân vật ông Hai với lòng yêu làng hòa tan trong tình yêu nước.

Trước hết, ông Hai là một người yêu làng, cái làng Chợ Dầu mà ông vẫn luôn tự hào, cứ rảnh là ông lại nghĩ đến nó. Cũng vì kháng chiến nên phải đi tản cư, ông Hai cứ đau đáu nhớ đến cái hồi mà còn được sống ở làng, cùng anh em làm việc. Nhớ về làng, ông Hai thấy mình như trẻ ra, phải, cái niềm vui sướng trong lòng lúc nào cũng làm cho con người ta hừng hực sức sống. Ông Hai “muốn được về làng, muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Hàng loạt các câu cảm thán được sử dụng “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.” Những ngày tháng còn được ở làng Chợ Dầu, ông Hai được làm những công việc góp sức cho kháng chiến nên thấy mình có ích cho làng, cho nước nên ông vui sướng lắm. Xa làng, đến nơi đất khách quê người, không còn được gắn bó nên nỗi nhớ cứ quẩn quanh bứt rứt không chịu được, đành phải lấy cái kỷ niệm một thời xoa dịu đi cái lòng yêu làng của ông.

Tình yêu làng, yêu nước trong trái tim của ông Hai vô cùng lớn. Đi giữa trời nắng gắt, ông thấy hả hê vì cái bọn Tây chịu cái “nắng này là bỏ mẹ chúng nó!” Cái tiếng chửi sung sướng, khoái chí, căm thù bọn giặc. Ông Hai đều đặn mỗi ngày đi đến phòng thông tin, nghe tin mừng quân ta thắng lợi. Niềm vui ấy đã ăn sâu vào tâm trí, thành thói quen thường trực của người đàn ông ấy. Biết bao nhiêu là tin hay, ông Hai vui lắm “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”, “bao nhiêu ý nghĩ vui thích cứ chen chúc trong đầu óc”. Lòng ông Hai cứ luôn hướng về cuộc kháng chiến, hướng về làng nước nên trong lòng rộn rã hẳn.

Thế nhưng lòng yêu làng trong ông ai đã được Kim Lân khéo léo đặt trong một tình huống thử thách đặc biệt. Đó là khi nghe tin làng Chợ Dầu “Việt gian theo Tây.” Ôi cái tin ấy sao mà làm đau cái lòng lão ấy thế. Tình yêu làng bấy lâu nay bị chấn động nặng nề trước cái tin ấy. Ông Hai “nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.” Biệt tài của Kim Lân ở đây đã đặc tả được cái chân thực và đau đớn của một người đàn ông nghe rằng đức tin của mình đã bị phản bội. Nhưng ông vẫn chưa tin hẳn mới hỏi lại nhưng “giọng lạc hẳn đi” “Liệu có thật không hả bác? Hay chỉ lại…” Câu hỏi đứt quãng, tăng phần hốt hoảng và chua xót, nghẹn lại của nhân vật. Cái hay của Kim Lân đã khắc họa được chân thực sự đau đớn, uất nghẹn, tủi nhục, xót xa của ông Hai. Ban đầu, ông xấu hổ lắm, lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng. Sự xấu hổ thành nỗi nhục nhã, khiến “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi.” Rồi tiếp đến là hàng loạt các hành động đặc tả thể hiện sự thất vọng, chán chường, cũng như sự đấu tranh nội tâm, cái xót xa tủi nhực của ông Hai. “Ông nằm vât ra giường”. Người đàn ông lớn tới chừng ấy, thấy lòng tin của mình sụp đổ, bỗng “tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra.” Kim Lân đưa vào hàng loạt các câu hỏi tự vấn trong tâm trí của ông Hai, ông xót xa cho cái phận làm dân, làm con của làng Chợ Dầu mang tiếng theo Việt Gian “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu….” Bỗng nhiên ta thấy nỗi đau khổ, tủi nhục dâng trào đến tột cùng, rồi chẳng biết sau này các con ông phải sống trong sự khinh bỉ, rẻ mạt của người đời thế nào khi mang tiếng là Việt gian bán nước. Nỗi đau khổ ấy “rít lên” thành tiếng chửi, cái chửi đau xót và khổ tâm “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này !”
Nhưng rồi phần lý trí trong ông Hai về quãng thời gian được chiến đấu với anh em ở làng đã được khơi dậy, “chẳng nhẽ họ lại đổ đốn đến vậy. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả”. Và rồi những cái tên trong lời nói của mấy người kia đích xác là dân làng Chợ Dầu, cái nhục nhã lại tăng thêm bội phần. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cà làng Việt gian.” Sự căm ghét quân thù, căm ghét cái giống Việt gian khiến ông nhục nhã khi làng mình theo Tây nhưng rồi ông thấy đau cho người dân làng Chợ Dầu, bị khinh bỉ, ruồng rẫy, bị “ghê tởm, thù hằn”. Cả cái nước Việt Nam này căm thù bọn Việt gian bán nước. Nghĩ đến cảnh “Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy” mà đau đớn.

Từ khi nghe tin, ông Hai trốn tránh ra ngoài, phần vì sợ bị chủ nhà đuổi đi vì mang tiếng Việt gian bán nước, phần vì xấu hổ, nhục nhã, lúc nào cũng “nơm nớp lo” người ta nói cái chuyện ấy, cái chuyện cả đời ông không dám nghĩ tới, làng Chợ Dầu theo Tây, làm Việt gian. Hàng ngày, ông Hai phải chịu sự mỉa mai, xỉa xói của bà chủ nhà, rồi nghe tin người làng Chợ Dầu sẽ bị đuổi đi. Giờ biết đi đâu về đâu. Trong đầu ông chợt hiện lên suy nghĩ “Hay là về làng?” nhưng lập tức bác bỏ ngay “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ cụ Hô…” Chi tiết “nước mắt giàn ra” của ông Hai lần nữa xuất hiện. Đó là sự đấu tranh gay gắt trong nội tâm của ông lão. Thế nhưng tinh thần bất khuất, lòng yêu nước của ông hai đã bao trùm lên tình yêu làng đơn sơ nhỏ bé ấy “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”Ông nói chuyện với đứa con, lấy câu chuyện ấy nhắc nhở chính ông rằng Cụ Hồ, cách mạng mới là điều đúng đắn. Ông Hai là người biết phân biệt phải trái, đặt lợi ích chung, mục đích mình tôn thờ lên cao nhất. Yêu nước, ông có thể rời làng, không bao giờ nghĩ đến cái làng Chợ Dầu mà ông vẫn tự hào nữa.

Rồi hôm nhận tin cải chính từ chủ tịch làng, ông Hai sung sướng đi khoe nhà mình bị Tây đốt nhẵn, rằng cái tin làng Chợ Dầu theo Tây đều sai cả. Ông hí hửng phát quà cho các con, đi khoe ông Thứ. Ông Hai như sống lại sau những ngày đau khổ. Thật ra, trong trái tim ông lão, tình yêu làng Chợ Dầu những năm kháng chiến và niềm tự hào âm ỉ cháy đâu đây nhưng vì sự trung thành với cụ Hồ, với cách mạng, tình yêu ấy đã bị vùi xuống thay thế bằng tình yêu nước cao cả. Ông Hai là một nhân vật điển hình của nhân dân Việt Nam những năm đầu kháng chiến, xây dựng nên nhân vật ông Hai, Kim Lân đã thật sự bộc lộ cái chất riêng trong thể loại truyện ngắn của mình.

Tác phẩm “Làng” của Kim Lân đã mô tả thực tế tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất, lòng trung thành, gan dạ, dũng cảm của một người con Việt Nam với cụ Hồ, với cách mạng qua nhân vật ông Hai. Ông Hai hiện lên trong trang văn đầy giản dị nhưng trái tim lại luôn nóng hổi tinh thần bất khuất, biết phải trái đúng sai, biết đâu mới là lẽ chính đáng. Hoàn thiện nhân vật ông Hai, Kim Lân đã chứng tỏ cái đạo đức trong văn chương mà ông luôn hướng tới.

Bài văn mẫu số 2

Trong trái tim mỗi con người luôn có một khoảng dành riêng cho quê hương, tình cảm ấy dạt dào cháy bỏng và có sức sống mãnh liệt, bền bỉ. Đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, tình cảm ấy càng tỏa sáng rạng ngời. Với ngòi bút sắc sảo chân thực cùng tâm hồn đồng cảm sâu sắc, nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại đã khắc họa thành công hình ảnh con người Việt Nam có tình yêu làng quê tha thiết. Chính tình yêu làng sâu sắc của Kim Lân đã lớn dần lên thành tình cảm cách mạng. Và truyện ngắn “Làng” chính là nơi nguồn tình cảm cao quý đó có dịp thăng hoa. Đến với tác phẩm, ta gặp một nhân cách ông Hai giản dị bình thường như bao người khác nhưng tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến.

Nhà văn Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Có sở trường ở thể loại mà qua một lát cắt, có thể nhìn thấy “vòng đời thảo mộc cả trăm năm”, Kim Lân cũng chủ trương viết bằng những trải nghiệm thực tế, chỉ viết những gì mình biết và mình thuộc. Chính vì vậy, nhà văn thường viết về đời sống của những người dân quê mà ông gắn bó. Tác phẩm “Làng” được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu năm 1948. Tác phẩm kể về ông Hai – một người nông dân yêu làng, yêu nước nhưng bất ngờ nghe tin làng theo giặc. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để khai thác nội tâm. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật này được thể hiện chân thực, đặc sắc qua từng chặng của quá trình đấu tranh, xung đột nội tâm gay gắt.

Ngay ở phần đầu tác phẩm, ta tìm thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng tha thiết, sâu nặng. Trước Cách mạng, ông hãnh diện về “những nhà ngói san sát, những đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa, trời gió bùn không dính đến gót chân” của làng. Ông còn vui vẻ khoe cái cái sinh phần to lớn của viên tổng đốc dù để xây dựng cái sinh phần hoành tráng đó, rất nhiều người phải phục dịch. Thậm chí, bản thân ông Hai cũng từng bị gạch đổ vào chân nên phải đi tập tễnh. Đó là bằng chứng cho thấy sự bóc lột, áp bức nặng nề của bè lũ thống trị và cuộc sống tăm tối của nhân dân. Tuy vậy, nhìn chung thì cách ông yêu làng vẫn thật giản dị, hồn hậu, đáng trọng biết bao nhiêu. Nó mang đậm nét tâm lí nông dân, rất mộc mạc, tử tế. Khi đã có Cách mạng, ông chuyển sang tự hào về phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá hay những buổi hát hỏng, bông phèng cùng anh em. Quả thực, trong mắt ông, điều gì thuộc về làng Chợ Dầu cũng đáng yêu, đáng quý cả! Ở đây, ta có thể thấy tình yêu làng của ông đã có một quá trình phát triển, từ tình yêu thuần nhất với ngôi làng trở thành tình cảm với đất nước, cách mạng.

Khi phải đi tản cư theo lệnh kháng chiến, ông Hai mang trong mình sự day dứt, trăn trở vì nhớ làng. Nỗi nhớ ấy chỉ nguôi ngoai khi đi làm, chứ lúc về nhà, hễ nằm xuống giường, vắt tay lên trán, hình ảnh ngôi làng lại khiến ông thương nhớ. Dù xa cách nhưng ông vẫn chăm chỉ nghe ngóng tin tức kháng chiến, hỏi thăm về làng. Câu văn “Chao ôi ! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá” là tiếng lòng bộc bạch của ông. Lời cảm thán kết hợp với nhịp văn được ngắt thành nhiều vế cùng điệp từ “nhớ”, “làng” được lặp lại trong cùng một câu văn đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung trong tâm hồn nhân vật. Ngôi làng nhỏ bé là nguồn cội, là linh hồn, lẽ sống của cuộc đời ông. Tâm trạng ấy của ông Hai không phải là nỗi niềm riêng cá biệt mà là cảm xúc chung của bất cứ người nông dân nào khi phải rời xa nơi chôn rau cắt rốn để sống với thân phận của một dân ngụ cư.

Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai còn nằm ở diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc. Trước khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai biết được bao nhiêu tin vui về cách mạng. Những chiến công hiển hách của quân ta khiến ông Hai vui sướng quá đỗi, “ruột gan ông lão cứ múa cả lên”. Chắc hẳn ông cũng mong chờ những tin tức như vậy từ làng Chợ Dầu.

Khi nghe tin làng theo giặc, ban đầu, ông Hai bàng hoàng, sửng sốt. Cú sốc bất ngờ và đau đớn khiến “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Càng yêu làng, tin tưởng vào làng thì ông lại càng đau xót. Còn gì đau đớn hơn khi lẽ sống của mình sụp đổ? Ông lão như rơi xuống hố sâu của nỗi tủi nhục, bẽ bàng. Ông cố bình tâm để xác minh tin tức: “Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. Sự ngập ngừng thể hiện qua dấu ba chấm cho thấy ông niềm âu lo phấp phỏng cùng thoáng hi vọng mong manh. Ông ước ao đó chỉ là tin thất thiệt về làng… Nhưng người đàn bà “vừa ở dưới ấy lên” đã kể ra những dẫn chứng về sự phản bội của làng Chợ Dầu. Mỗi chi tiết bà ta kể là mỗi vết dao sâu hoắm găm vào trái tim ông. Giặc vào làng, cả làng vác cờ ra hân hoan. Thằng chánh Bệu còn khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, rồi lại đưa cả vợ con đi với giặc ở ngoài tỉnh. Ông Hai không thể không tin. Cố gắng giấu niềm chua xót, ông đành lảng đi: “Hà, nắng gớm, về nào…”. Nỗi xấu hổ khôn cùng khiến người nông dân ấy “cúi gằm xuống mặt mà đi”. Còn niềm đau nào hơn là người của cái làng “giống Việt gian bán nước”? Thậm chí, những kẻ ăn cắp, ăn trộm vì đói khổ còn đáng thương, đáng được tha thứ và thấu hiểu hơn những kẻ phản bội lại Tổ quốc, đồng bào, phản bội nòi giống và tổ tiên để đi theo giặc giã.

Về đến nhà, ông Hai “nằm vật xuống giường”. Gương mặt mới hồi nào hồ hởi nay đã chẳng còn chút sinh khí. Ông đau đớn, tủi thân khi nhìn bọn trẻ con đang chơi với nhau ông. Tương lai nào cho các con ông khi chúng là trẻ con làng Việt gian? Rồi mai đây, chúng sẽ bị người ta hắt hủi. Nước mắt ông lão cứ giàn ra. Thế rồi, ông Hai căm giận đến tột cùng, lên tiếng chửi bọn người làng Chợ Dầu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Trong lòng ông Hai diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Một mặt, ông cố thuyết phục mình không tin vào cái tin dữ kia. Ông nhớ lại từng người một rồi tự lẩm bẩm: “ họ toàn là những người có tinh thần cả. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”!. Mặt khác, ông lại nghi ngờ chính mình: “Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì”. Câu nói “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”! được ngắt ra thành các câu văn ngắn với dấu “!” thể hiện sự phẫn uất và bất lực của ông Hai. Thế rồi, từ bẽ bàng, đau đớn, ngờ vực đến phẫn nộ, tâm trạng ông Hai chuyển sang sự lo lắng. Ông quan ngại cho cuộc sống của mình và những người làng đi tản cư: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao?”. Không khoa trương cầu kì, cũng không đưa ra bất kì tuyên ngôn nào, Kim Lân vẫn thể hiện trọn vẹn nỗi khổ tâm nhân vật bằng lối viết chân xác, giản dị. Ta vốn đã quen với những trang viết hùng hồn, những lời văn hùng tráng và lôi cuốn khi viết về lòng yêu nước, nay lại cảm động thấm thía trước nỗi niềm của một người nông dân nhỏ bé khi hay tin làng theo giặc. Bầu không khí nặng nề bao trùm nhà ông Hai tối hôm đó. Ông không sao ngủ được, trở mình hết bên này đến bên kia. Nghe tiếng mụ chủ nhà, trống ngực ông đập thình thịch, chân tay nhủn ra. Nỗi đau xót, tuyệt vọng đã ghì chặt lấy ông.

Tâm trạng ám ảnh của ông Hai còn được thể hiện xuyên suốt ba bốn ngày sau. Cả ngày ông Hai chỉ quanh quẩn trong nhà, nghe ngóng xem tình hình. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ mọi người xung quanh đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông, ông lại lủi vào một góc nhà mà nín thít. “Thôi, lại chuyện ấy rồi.”

Đỉnh điểm của sự căng thẳng, tuyệt vọng nằm ở việc mụ chủ nhà muốn đuổi ông đi. Khi ấy, ông Hai có 2 con đường: một là thuê nhà ở nơi khác, hai là trở về làng Chợ Dầu. Nhân vật đứng giữa hai ngã rẽ, buộc phải đấu tranh để đưa ra quyết định. Kim Lân đã rất tài tình khi xây dựng tình huống truyện đặc sắc này, từ đó thể hiện rõ phẩm chất nhân vật. Nếu ông đi nơi khác thì sợ rằng không ai chứa chấp nhưng về làng tức là phản bội lại cụ Hồ, kháng chiến. Thân phận con người hóa thành bơ vơ, lạc lõng. Mâu thuẫn của ông Hai là mâu thuẫn giữa niềm tự hào, tình yêu làng thuần hậu và nỗi ô nhục vì làng phản bội theo Tây. Cuối cùng, nhân vật đã đưa ra lựa chọn: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Chi tiết này thật cảm động! Nó cho thấy con người đã ý thức được về tình yêu nước, sự kiện trung với cách mạng. Quá trình phát triển tâm lí của nhân vật với những thay đổi, xung đột quyết liệt được nhà văn miêu tả rất tinh tế và thuyết phục. Dù đã đưa ra lựa chọn, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ nghĩa tình với làng. Thậm chí, ông càng day dứt và nhớ làng hơn. Không biết gửi nỗi tâm sư vào đâu, ông đành tâm sự với đứa con nhỏ cho vơi bớt đi nỗi đau khổ của mình.

 Thế nhà con ở đâu?

– Nhà ta ở làng Chợ Dầu.

– Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?

– Có

………

– Thế con ủng hộ ai?

– Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm.

Đoạn đối thoại giản đơn nhưng thật cảm động! Ông Hai vẫn luôn dành cho ngôi làng một vị trí trang trọng trong trái tim, ông giáo dục con dù ở nơi đâu cũng luôn nhớ về “nhà”. Giờ đây, tình yêu ấy càng lớn hơn khi được bổ sung thêm khía cạnh thủy chung với cách mạng, kháng chiến. Ông muốn con ông biết “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. “Cái tấm lòng của bố con ông là như thế, chết thì chết không bao giờ dám đơn sai.” Đây chính là lời thề sâu nặng, thiêng liêng của người dân dành cho Tổ quốc.

Như vậy, ta có thể thấy sự giằng xé nội tâm của ông Hai từ khi nghe tin làng theo giặc. Cuộc đấu tranh nội tâm đi từ chỗ bất ngờ, choáng váng đến đau xót, nhục nhã, tủi hờn, căm tức rồi ám ảnh, sợ hãi đến cùng cực. Lựa chọn cuối cùng của ông đã nói lên tình yêu làng, yêu nước, tình cảm thủy chung son sắt với cách mạng, kháng chiến của người nông dân. Ông Hai là hình ảnh đại diện cho vẻ đẹp của người nông dân VN trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Khi nghe tin làng được cải chính, tâm trạng của ông Hai hoàn toàn thay đổi. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “Mồm bỏm bẻm nhai trầu”, “Cặp mắt hung hung đỏ hấp háy”. Nhà văn sử dụng một loạt các từ láy để diễn tả niềm vui, sức sống dâng trào của ông lão. Niềm vui ấy còn được thể hiện bằng các hành động như phấn khởi mua quà cho các con, đem khoe tin làng với tất cả mọi người: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính…. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”. Giặc có bao nhiêu thằng, đốt phá những đâu đâu, dân quân tự vệ làng ông đã chống cự ra sao. Ông kể rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa tham dự trận đánh ấy. Mọi người xung quanh, ai ai cũng vui mừng cho ông, đến cả bà chủ nhà cũng đon đả. Tình yêu nước là chất keo kết dính con người, tạo ra sự đoàn kết trong cộng đồng.

Những nhân vật như ông Hai, bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê,…chính là đại diện cho tình yêu nước, tinh thần trách nhiệm, lòng tự tôn dân tộc, sự đôn hậu thủy chung ở người nông dân Việt Nam. Hình ảnh những con người chân lấm tay bùn đi vào trang sách thật hiên ngang. Tài năng của Kim Lân khiến người đọc ngạc nhiên như chính nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét khi đọc “Làng”: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”.

Tóm lại, bằng lời văn chân thực, tình huống truyện khéo léo, độc đáo và cùng với sự miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân quả thật đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai – một người nông dân với tình yêu làng quê tha thiết. Tình yêu làng ở ông Hai gợi lên trong chúng ta nhiều suy nghĩ đẹp đẽ lớn lao. Và, qua nhân vật ông Hai, chúng ta cần lắng đọng suy tư về tình yêu làng quê của chính bản thân mình. Hơn bao giờ hết, mỗi người cần bồi dưỡng tình cảm cao đẹp ấy mỗi ngày. Bản thân là học sinh, chúng ta hãy thể hiện tình yêu làng quê của mình bằng cách cố gắng nỗ lực học tập, sống ý nghĩa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương.

Bài văn mẫu số 3

Kim Lân là một nhà văn gắn bó và am hiểu sâu sắc về người nông dân, về cuộc sống của nông thôn Việt Nam. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cảnh ngộ người nông dân và sinh hoạt làng quê. Tiêu biểu trong đó phải kể đến truyện ngắn “Làng”, một tác phẩm được ông viết trong thời kì chống thực dân Pháp, tác phẩ ca ngợi lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng, ca ngợi tinh thần cách mạng của những người dân quê chân chất, hiền lành và điều đó thể hiện rõ nét qua nhân vật ông Hai- một người dân nghèo với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết trong mọi hoàn cảnh, chiến tranh hay thời bình thì họ vẫn 1 lòng yêu quê hương đất nước.

Có thể nói trong tác phẩm Làng nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai- hình ảnh một người nông dân chân chất thật thà cả đời chỉ biết quanh quẩn với cái làng Chợ Dầu của mình. Kim Lân khắc họa một nhân vật với tình yêu làng, minh chứng của nó chính là việc khi có lệnh tản cư ông Hai đã lưỡng lự không muốn đi. Ông muốn ở lại để sát cánh bên bộ đội bên anh em thế nhưng vì hoàn cảnh ông đành phải theo gia đình xa làng. Ở nơi tản cư trái tim người con ấy vẫn không một phút nào ngơi nghỉ nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ông hay chạy đi với nhà bác hàng xóm về cái làng Chợ Dầu lát toàn gạch đá xanh, có cái chòi thông tin cao quá ngọn tre, phòng thông tin rộng lắm…. Với ông tình yêu làng trở thành mạch máu, thớ thịt trong cơ thể.

Có thể dễ nhận thấy nét tính cách đầu tiên ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Ông yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu lắm. Ông kể với mọi người về làng chợ Dầu một cách hào hứng. Ông đau đáu nỗi nhớ quê hương, làng xóm và thường xuyên theo dõi tin tức kháng chiến cũng như hỏi thăm về làng. Ông vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông có cái “nhà thông tin rộng rãi”, “có chòi phát thanh”, khoe làng mình giàu có, trù phú…Ông đã được tiếp xúc với cách mạng, với đấu tranh, vẫn khoe làng, vẫn là tình yêu làng của con người chất phác, hiền lành, song trong tình yêu làng có một tình cảm khác đang trỗi dậy, lớn mạnh hơn, cao cả hơn, thiêng liêng hơn. Không chỉ dành tình yêu làng xóm, anh dành trọn tình yêu của mình cho cách mạng cho dân tộc. Ông nghe ngóng tin tức kháng chiến và vui sướng khi biết quân ta chiến thắng, ông có niềm tin mãnh liệt vào cụ Hồ và cuộc cách mạng. Một lòng trung thành với cách mạng thể hiện ” làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù…”. Ông Khẳng định rằng dù yêu làng Dầu nhưng khi làng theo giặc, ông sẽ đứng về chính nghĩa. Có thể thấy ở nhân vật ông Hai có tình yêu làng gắn liền với tình yêu đất nước, cách mạng.

Kim Lân đã vô cùng khéo léo khi xây dựng thành công tình huống truyện đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của sự mâu thuẫn từ đó nổi bật lên tình yêu nước mãnh liệt. Tình yêu làng, yêu nước hòa quyện trong con người ông Hai ngày càng rõ rệt hơn khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, ông Hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân”, “ông lặng đi tưởng như không thở được” lảng tránh khỏi đám đông. Ông hai xót xa khi nghe tin về về làng mình, sự phản bội của nơi chôn nhau cắt rốn của mình, ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó. Với một người yêu nước như ông thì cái tin này chẳng khác nào như nhát dao cứa vào trái tim ông. Cái mặt ông méo xệch đi, ông bần thần không dám tin đó là sự thật hỏi đi lại hỏi xem có phải là tin đồn thất thiệt không. Chỉ đến khi nhận được cái gật đầu chắc nịch “Cả làng nó đi theo Tây rồi ông ạ. Từ thằng chủ tịch trở xuống hết”. Đến lúc này ông lão mới cặm cụi cúi gằm mặt xuống đất bước chân nặng trịch về nhà. Khi về nhà trong nỗi đau đớn, ông nằm vật ra giường, “nước mắt ông cứ trào ra”, đêm đó trằn trọc không ngủ được. Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc. Tâm trạng giằng xé hơn bao giờ hết. Ông gắt gỏng ngay cả với bà vợ tội nghiệp của mình. Đến đàn con thơ cũng chẳng dám chơi đùa khi thấy bố mình như thế nữa. Nõi đau càng trở nên đỉnh điểm khi bà chủ nhà có ý định đuổi những người dân làng Chợ Dầu đi chỗ khác. Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy. Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước. Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chẳng làm được gì, chưa thể đối mặt với điều đó, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi. Có lúc ông muốn về làng vì bị người ta hắt hủi, coi khinh. Ông cười trong chua xót, bởi có lẽ trái tim ông bây giờ không còn chịu nổi thêm bất cứ điều tiếng gì nữa rồi. Tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu.Thế nhưng ẩn sâu trong nỗi đau ấy, tiếng nói ngây thơ của con trẻ như đưa ông đến với một quyết định vĩ đại “Làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo giặc thì phải thù”. Để có được quyết định này không biết người đàn ông này đã trải qua bao nhiêu giằng xé nội tâm, bao nhiêu ray rứt. Bởi lẽ không có ai có thể quay lưng với mảnh đất đã chôn nhau cắt rốn của mình được? Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. Ông chỉ biết trò chuyện với đứa con út để khẳng định: ông luôn tin và trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, quyết không theo giặc. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Sau những ngày u uất tưởng chừng như đường cùng đó ông đã tìm thấy chút ánh sáng cho cuộc đời mình. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính, do chính ông chủ tịch lên thông báo. Ông Hai khấp khởi chạy về nhà, khuôn mặt ủ rũ của ông hôm nay trở nên “vui tươi, rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua quà cho những đứa con rồi đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê. Niềm vui, khát sống đã trở lại với con người ấy. Tinh thần yêu nước của ông Hai, một tình cảm chân thành của người nông dân chất phác, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến độ vui mừng thông báo nhà mình bị giặc đốt cháy sạch. Ông minh chứng cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.

Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc. Với việc xây dựng thành công nhân vật khai thác triệt để nội tâm thông qua những độc thoại nội tâm càng khiến hình ảnh người nông dân hiện lên rõ nét. Đó là hình ảnh đại diện của những con người chất phác thời bất giờ. Diễn biến tâm lí của ông Hai là hoàn toàn hợp lí so với cốt truyện từ bình lặng đến cao trào rồi quay về ngập tràn trong hạnh phúc, qua đó thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của nông dân lao động. Ông Hai là một hình tượng vô cùng quen thuộc của người nông dân thời bấy giờ. Những con người giản dị chất phác nhưng có đức tin mãnh liệt về đảng về Cụ Hồ.

Tác phẩm “Làng” của Kim Lân đã khắc họa hình ảnh ông Hai hết sức sống động, chân thực với những chi tiết dân dã mộc mạc. Hình ảnh ông Hai làm lên linh hồn cho truyện ngắn, là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam sau cách mạng. Qua câu chuyện người đọc cảm nhận được sự sôi nổi trong mỗi người nông dân từ đó quý trọng và gắn bó với cách mạng cùng lòng trung thành, biết ơn sâu sắc.

3. Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 3

Kim Lân là một nhà văn có biệt tài viết truyện ngắn. Ông viết không nhiều nhưng lại viết hay về người nông dân, đặc biệt là những số phận nhỏ bé. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt… và trong đó có Làng. Nổi bật lên ở truyện ngắn này là vẻ đẹp của ông Hai.

“Làng” được sáng tác năm 1948, vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gay go ác liệt. Nhân vật chính là ông Hai phải rời làng chợ Dầu để đi tản cư. Bỗng một ngày ông nghe tin làng của mình theo giặc. Đặt ông Hai vào trong một tình huống éo le để làm bật lên nét đẹp trong nhân cách của người nông dân.

Trước tiên, ông Hai là một người rất yêu làng, yêu nước.

Ở nơi tản cư, ông hay khoe về làng bằng tất cả tình yêu và sự tự hào. Ông tự hào về những cái điều nhỏ nhất rằng làng ông có đường lát bằng đá xanh, trời mưa đi bùn không dính gót, tự hào cả về cái dinh thự của viên tổng đốc… Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, đặc biệt sau khi nghe lời khẳng định “Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên…”, ông Hai như không tin vào tai mình. Một loạt diễn biến tâm lý phức tạp đã được Kim Lân miêu tả tài tình. Ông trả tiền nước, đứng dậy, “cười nhạt”, “chèm chẹp miệng” rồi nói “Hà, nắng gớm, về nào”. Câu nói ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy hiện tại, không muốn ai phát hiện ra mình là người làng chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Khi về đến nhà nhìn thấy lũ con “nước mắt ông giàn ra”. Giọt nước mắt đầy đau khổ. Ông nghĩ đến thân phận của mình, của gia đình mình cũng là người làng Việt gian. Từ đau khổ ông chuyển thành tức giận mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà làm cái giống Việt gian bán nước”. Nhưng chính ông cũng không chắc chắn với lời nói của mình. Trong đầu ông xuất hiện hàng loạt các câu hỏi. Ông nửa tin nửa không muốn tin. Ông vừa khẳng định vừa phủ định. Ông Ha đang ở trạng thái giằng xé, nghĩ ngờ mãnh liệt. Điều này cũng xuất phát từ tình cảm sâu nặng của ông với làng chợ Dầu. Đến khi làng của ông được trả lại sự trong sạch, thì ông còn vui mừng thông báo “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt sạch!”. Chi tiết có vẻ nghịch lý nhưng lại là lời khẳng định làng chợ Dầu của ông không theo Tây, không phải Việt gian mà còn có tinh thần chiến đấu. Trong ngọn lửa đốt nhà ông Hai là một ngôi làng đang hồi sinh, là tình yêu làng của ông Hai vẫn vẹn nguyên và to lớn.

Ông còn là một người nông dân yêu nước. Hàng ngày, ông vẫn thường ra phòng thông tin để nghe ngóng tình hình tin tức kháng chiến và cả thời sự trên thế giới. Khi nghe tin một em nhỏ “xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm”, một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc và biết bao tin tức của cuộc chiến, “ruột gan ông cứ múa cả lên”. Khi biết làng chợ Dầu theo giặc, ông phải lựa chọn giữa tình yêu làng và lòng yêu nước. Cuối cùng ông khẳng định chắc nịch “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Vậy là ông Hai đã chọn theo kháng chiến và tin vào cụ Hồ. Đây cũng thể hiện tư tưởng tiến bộ của người nông dân, nhận thức được tình yêu nước lớn lao hơn và bao trùm lên tình yêu làng xóm. Suy cho cùng quyết định như vậy cũng là để bảo vệ cả hai thứ tình cảm thiêng liêng này.

Vẻ đẹp của ông Hai là vẻ đẹp của một người nông dân hiền lành chất phác có sự hòa quyện giữa tình yêu làng và lòng yêu nước. Ông Hai đã gợi lên trong lòng bạn đọc bao niềm yêu mến trân trọng và in đậm dấu ấn.

4. Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – mẫu 4

Kim Lân nhà văn gắn bó với hình ảnh người nông dân và đồng quê, truyện “Làng” của Kim Lân đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Trọng tâm truyện ngắn đó là ông Hai người nông dân yêu làng, yêu nước và theo cách mạng.

Ông Hai trước kia sống ở làng Chợ Dầu nhưng vì hoàn cảnh ông phải xa làng, tuy vậy ông luôn tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe nó với mọi người về làng của mình. Khi ở xa ông vẫn trông ngóng mọi tin tức về quê hương của mình.

Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống khó khăn đó là tin “làng theo giặc” giúp bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Ông trông ngóng mọi tin tức về làng Chợ Dầu như các chiến công các anh chiến sĩ hay của các em nhỏ cũng đủ làm ông vui sướng.

Yêu làng, yêu nước bao nhiêu thì khi nghe tin làng theo giặc ông hụt hẫng, thất vọng bấy nhiêu. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, nó càng được bộc lộ rõ hơn. Tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông Hai bất ngờ điều này đã làm cho ông sững sờ như không tin nổi đó là sự thật: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Từ tâm trạng hồ hởi khi được trở về quê đang dần chuyển thành thất vọng, tủi hổ đến nỗi ông đã bị nỗi ám ảnh. Suốt ngày ông chỉ ở trong nhà, không dám gặp mặt ai… Tâm trạng của ông Hai lâm vào bế tắc khi hay chủ nhà không cho gia đình ông ở nữa vì họ không chứa những người phản cách mạng.

Trong đoạn kết là lúc làng của ông cải chính, ông Hai vui và xúc động khi nghe được tin làng theo cách mạng theo Bác Hồ. Ta thấy được chính tình yêu làng, yêu nước của ông ngày càng sâu sắc hơn. Ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước như trước kia nữa. Niềm vui của ông Hai chính là cảm xúc của con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Tác giả đã miêu tả thật sâu sắc nhân vật như ông vui lắm, ông như thấy mình như con lật đật, bô bô lại kể về làng Chợ Dầu với một niềm tự hào hơn cả trước kia hay nhà của ông bị Tây đốt nhẵn nhưng ông vẫn vui vì làng đã theo cách mạng.

Nhà văn Kim Lân đã phác họa hình ảnh ông Hai người nông dân luôn yêu làng, yêu quê hương đất nước vô bờ bến. Ông theo cách mạng và trung thành với kháng chiến, với Bác Hồ đó cũng là hình ảnh chung người nông dân sau CMT8.

Bài Văn Mẫu số 4

Kim Lân là một trong những nhà văn nổi tiếng với đề tài người nông dân. Ở ông có sự đi sâu, tìm tòi và khám phá mãnh, liệt khai thác những khía cạnh mới về đời sống cũng như tâm lý tình cảm của người nông dân trong kháng chiến. Trong đó nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” thực sự đã để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm. Tình cảm của ông với đất nước cũng chính là đại diện cho tình cảm của người dân trong kháng chiến.

Có thể nói trong tác phẩm Làng nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai. Những diễn biến tâm lí của nhân vật vô cùng phù hợp với tình huống truyện. Khai thác triệt để nội tâm nhân vật bằng độc thoại và đối thoại nội tâm càng làm nổi bật tình yêu đất nước mãnh liệt của người nông dân thời bấy giờ. Nó trở thành một trong những điểm nhấn của tác phẩm và mang đến thành công cho nhà văn.

Ông Hai hiện lên là hình ảnh một người nông dân chân chất thật thà cả đời chỉ biết quanh quẩn với cái làng Chợ Dầu của mình. Thế nhưng ông yêu làng của mình lắm, minh chứng của nó chính là việc khi có lệnh tản cư ông đã lưỡng lự không muốn đi. Ông muốn ở lại để sát cánh bên bộ đội bên anh em thế nhưng vì hoàn cảnh ông đành phải theo gia đình xa làng. Ở nơi tản cư trái tim người con ấy vẫn không một phút nào ngơi nghỉ nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ông hay chạy đi với nhà bác hàng xóm về cái làng Chợ Dầu lát toàn gạch đá xanh, có cái chòi thông tin cao quá ngọn tre, phòng thông tin rộng lắm…. Với ông tình yêu làng trở thành mạch máu, thớ thịt trong cơ thể.

Kim Lân đã vô cùng khéo léo khi xây dựng thành công tình huống truyện đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của sự mâu thuẫn từ đó nổi bật lên tình yêu nước mãnh liệt. Tình huống truyện mà tác giả đưa ra đó chính là cái tin làng Chợ Dầu theo giặc. Phải nói nó chính là động lực đẩy nhân vật ông Hai đến đỉnh điểm của sự mâu thuẫn và đau khổ.

Với một người yêu nước như ông thì cái tin này chẳng khác nào như nhát dao cứa vào trái tim ông. Cái mặt ông méo xệch đi, ông bần thần không dám tin đó là sự thật hỏi đi lại hỏi xem có phải là tin đồn thất thiệt không. Chỉ đến khi nhận được cái gật đầu chắc nịch “Cả làng nó đi theo Tây rồi ông ạ. Từ thằng chủ tịch trở xuống hết”. Đến lúc này ông lão mới cặm cụi cúi gằm mặt xuống đất bước chân nặng trịch về nhà.

Về đến nhà ông nằm vật ra giường đầy đau khổ. Hóa ra cái làng mà ông yêu thương tự hào đến thế giờ theo tây rồi đấy. Ông gắt gỏng ngay cả với bà vợ tội nghiệp của mình. Đến đàn con thơ cũng chẳng dám chơi đùa khi thấy bố mình như thế nữa.

Nỗi đau càng trở nên đỉnh điểm khi bà chủ nhà có ý định đuổi những người dân làng Chợ Dầu đi chỗ khác. Ông Hai càng như rơi vào tuyệt vọng. Lúc này ông chỉ biết ôm đàn con lủi thủi một chỗ. Ông hỏi nó những câu hỏi yêu làng không? Theo ai? Chỉ đến khi nhận được câu trả lời chắc nịch của nó nội tâm ông mới vơi đi phần nào. Bởi ông đau quá nỗi đau ấy chẳng biết phải nói với ai cả. Ông đành phải tự nói trong đầu để vơi đi nỗi nhục nhã này. Biết bao ngày, chân ông không dám bước ra khỏi cổng vì ông sợ sẽ bắt gặp những cái nhìn xét nét cái chỉ chỏ đầy ngụ ý của những người xung quanh. Ông chỉ thương cho những đứa trẻ tội nghiệp của mình, mới bé tí mà đã mang tiếng con của làng Việt gian. Ông cười trong chua xót, bởi có lẽ trái tim ông bây giờ không còn chịu nổi thêm bất cứ điều tiếng gì nữa rồi. Thế nhưng ẩn sâu trong nỗi đau ấy, tiếng nói ngây thơ của con trẻ như đưa ông đến với một quyết định vĩ đại “Làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo giặc thì phải thù”. Để có được quyết định này không biết người đàn ông này đã trải qua bao nhiêu giằng xé nội tâm, bao nhiêu ray rứt. Bởi lẽ không có ai có thể quay lưng với mảnh đất đã chôn nhau cắt rốn của mình được?

Thế nhưng sau những ngày u uất tưởng chừng như đường cùng đó ông đã tìm thấy chút ánh sáng cho cuộc đời mình. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính, do chính ông chủ tịch lên thông báo. Ông Hai khấp khởi chạy về nhà, dường như con người ngày hôm qua còn ủ ê bê bết đó đã không còn thay vào đó là một con người mắt lấp lánh đầy hạnh phúc. Ông mua kẹo về cho các con rồi lại lật đật chạy sang nhà hàng xóm khoe rằng làng ông không theo giặc, nào thì cái làng Chợ Dầu bị giặc đốt hết rồi, chính ông chủ tịch lên nói vậy…. Niềm vui, khát sống đã trở lại với con người ấy. Với ông cái tin này còn quý hơn là việc ông được sinh ra lần nữa. Bởi nó chính là danh dự là nhân phẩm và là đức tin của mỗi người. Đến cái nhà tài sản quý báu nhất của mỗi con người mà ông còn chẳng tiếc thì còn cái gì có thể hơn được nữa?

Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc. Với việc xây dựng thành công nhân vật khai thác triệt để nội tâm thông qua những độc thoại nội tâm càng khiến hình ảnh người nông dân hiện lên rõ nét. Đó là hình ảnh đại diện của những con người chất phác thời bấy giờ. Diễn biến tâm lí của ông Hai là hoàn toàn hợp lý so với cốt truyện từ bình lặng đến cao trào rồi quay về ngập tràn trong hạnh phúc, qua đó thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của nông dân lao động thời bấy giờ.

Ông Hai là một hình tượng vô cùng quen thuộc của người nông dân thời bấy giờ. Những con người giản dị chất phác nhưng có đức tin mãnh liệt về đảng về Cụ Hồ. Nó trở thành những tấm gương sáng trong kháng chiến để độc giả thêm quý mến và ngưỡng mộ.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Hy vọng bài viết trên sẽ hữu ích và tác động tích cực tới kết quả học tập của bạn. Mời bạn tham khảo thêm các tài liệu học tốt khác tại đây .

Chia sẻ bài viết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web