Tác giả Đỗ Phủ – Cuộc đời và sự nghiệp

Bài viết Tác giả Đỗ Phủ - Cuộc đời và sự nghiệp giới thiệu đến bạn đọc những nét tiêu biểu về cuộc đời cũng như những thành tựu trong suốt quá trình sự nghiệp của nhà văn Đỗ Phủ.

Tác giả Đỗ Phủ – Cuộc đời và sự nghiệp

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) – Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

1. Tiểu sử nhà văn Đỗ Phủ

Ngày sinh: sinh năm 712- mất năm 770, biểu tự Tử Mỹ, hiệu Thảo đường, Thiếu Lăng dã lão, sau này được mọi người gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ công bộ, Đỗ lăng tẩu hay Lão Đỗ để phân biệt với Đỗ Mục và Tiểu Đỗ

Quê quán: Ông sinh ra ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc

Gia đình: Ông sinh ra trong một gia đình làm quan, có truyền thống thơ văn lâu đời. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, cha là Đỗ Nhàn, từng làm quan. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường.

Thời đại: Nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời Đường

Cuộc đời:

Lớn lên trong gia đình học thức, để phục vụ con đường làm quan sau này, nên từ nhỏ ông đã được tiếp thu nên giáo dục truyền thống nước nhà, học thuộc những tác phẩm nổi tiếng lịch sử, thi ca và cả triết học Khổng giáo. Đỗ Phủ sớm đã biết sáng tác nhưng những tác phẩm thơ hay, nổi tiếng thời đó, nhưng không cất giữ lại.

Năm 730 ông đến Trường An dự thi nhưng bị đánh trượt. Chính vì điều này gây lên tranh cãi cho tới tận bây giờ. Nhiều người cho rằng, ông thi trượt không đúng lối hành văn thời đấy, nhưng cũng có ý kiến cho rằng do gia đình ông không quen biết quan trong triều đình. Tuy nhiên mọi thứ đều là suy đoán, vẫn chưa có đáp án chính xác.

Sau đó, ông đi ngao du sơn thủy và gặp được tri kỷ là nhà thơ Lý Bạch. Hai người trở thành biểu tượng thơ ca vĩ đại của lịch sử thời kỳ nhà Đường lúc bấy giờ nói riêng và đất nước Trung Hoa nói chung. Tuy chỉ gặp nhau ít lần, nhưng Đỗ Phủ và Lý Bạch có không ít vài thơ về nhau.

Những năm đi du lịch ngắm cảnh, làm thơ đã giúp ông thêm lạc quan yêu đời và dũng cảm, nội dung thơ ca của ông càng trở nên phong phú hơn. Một số bài thơ được lưu truyền lại ở thời kỳ này như: Hoạ ưng, Tráng du, Vọng nhạc, Phòng binh tào Hồ mã ,… cho thấy phần nào tài năng xuất chúng của nhà thơ từ những ngày còn trẻ.

Ông từng có khoảng thời gian ra làm quan, nhưng cuộc đời nhà thơ gần như gắn với cảnh đau khổ và bệnh tật. Năm 755, triều đình nổi chiến tranh, để tránh hiểm họa, ông từ quan cùng gia đình trở về Thành Đô. Tại đây ông được bạn bè giúp đỡ, sống trong ngôi nhà tranh dựng bên cạnh khe Cán Hoa, phía tây Thành Đô, Tứ Xuyên. Tuy cuộc sống mưu sinh vất vả, nhưng có thể nói đây là khoảng thời gian hạnh phúc và yên bình nhất của Đỗ Phủ.

2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Đỗ Phủ

– Về nội dung:

+ Vấn đề lịch sử được đề cập trực tiếp trong thơ ông là sự bình luận các sách lược quân sự, các thắng bại của triều đình hay những ý kiến ông muốn đề đạt trực tiếp tới hoàng đế. Một cách gián tiếp, ông viết về ảnh hưởng của thời đại đối với đời sống chính mình cũng như người dân thường Trung Quốc.

+ Tình thương của Đỗ Phủ đối với chính mình và với người khác chỉ là một phần trong các chủ đề của thơ ông: ông còn sáng tác nhiều bài về những chủ đề mà trước đó bị coi là không thích hợp để thể hiện trong thơ. Zhang Jie đã viết rằng đối với Đỗ Phủ, “mọi thứ trên thế giới này đều là thơ”, các chủ đề trong thơ ông rất bao quát, như cuộc sống hàng ngày, thư họa, hội họa, thú vật và các chủ đề khác.

– Về nghệ thuật:

+ Dù sáng tác ở mọi thể loại thơ, Đỗ Phủ nổi tiếng nhất ở cận thể thi, một kiểu thơ có nhiều ràng buộc về hình thức và số lượng từ trong câu. Khoảng hai phần ba trong 1.500 tác phẩm hiện còn của ông là ở thể này, và nói chung ông được coi là nhà thơ tiêu biểu cho thể loại này.

+ Những bài thơ đạt nhất của ông trong thể loại dùng phép đối song song để thêm nội dung biểu đạt thay vì chỉ là một quy định kỹ thuật thông thường.

– Các tác phẩm tiêu biểu: Nguyệt dạ, Khúc Giang, Binh xa hành, Thu hứng,…

3. Vị trí và tầm ảnh hưởng

– Sinh thời và ngay sau khi mất, Đỗ Phủ đã không được đánh giá cao, phần vì những đổi mới trong phong cách và hình thức thơ ông. Một số bị coi là quá táo bạo và kỳ cục đối với giới phê bình văn học Trung Quốc. Chỉ một số ít tác giả đương thời có nhắc tới ông và miêu tả ông với tính chất tình cảm cá nhân, chứ không phải như một nhà thơ xuất chúng hay lý tưởng đạo đức. Thơ Đỗ Phủ cũng ít xuất hiện trong những hợp tuyển văn học thời kỳ đó.

– Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông đối với thi ca Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và tới thế kỷ thứ 9 ông đã trở nên rất nổi tiếng. Những lời ngợi ca đầu tiên dành cho Đỗ Phủ là của Bạch Cư Dị, người đã ca ngợi những tình cảm đạo đức trong một số tác phẩm của Đỗ Phủ. Hàn Vũ đã viết bài bênh vực mỹ học trong thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch trước những lời chỉ trích nhằm vào họ. Tới đầu thế kỷ thứ 10, Vi Trang đã cho dựng lại bản sao đầu tiên ngôi nhà tranh của ông ở Tứ Xuyên.

– Tới thế kỷ 11, trong giai đoạn Bắc Tống, danh tiếng Đỗ Phủ lên tới cực điểm. Trong thời gian này các nhà thơ trước đó đã được đánh giá lại một cách toàn diện, theo đó Vương Duy, Lý Bạch và Đỗ Phủ lần lượt được coi là đại diện cho xu hướng Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo trong văn hóa Trung Quốc. Cùng lúc ấy, sự phát triển của Tân Khổng giáo đã đặt Đỗ Phủ lên vị trí cao nhất, vì trong cả cuộc đời, ông đã không vì đói nghèo cùng khổ mà quên đi quân vương của mình. Ảnh hưởng của ông càng tăng do khả năng hòa hợp những mặt đối lập: phe bảo thủ chính trị bị thu hút bởi sự trung thành của ông với hệ thống tôn ti trật tự sẵn có, còn phe cải cách nắm lấy mối quan tâm của ông đối với đời sống dân nghèo. Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, sự trung thành với quốc gia và những quan tâm của ông tới người nghèo đã được giải thích sự phôi thai của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và ông được tán dương vì ông đã sử dụng ngôn ngữ giản dị “của nhân dân”.

– Sự nổi tiếng của Đỗ Phủ lớn tới mức có thể đo được, như trường hợp của Shakespeare ở Anh. Mỗi nhà thơ Trung Quốc đều khó có thể không bị ảnh hưởng từ ông. Không bao giờ có một Đỗ Phủ thứ hai, các nhà thơ sau này tiếp nối truyền thống trong từng khía cạnh cụ thể của thơ ông. Mối quan tâm của Bạch Cư Dị tới dân nghèo, lòng yêu nước của Lục Du, các phản ánh cuộc sống hàng ngày của Mai Nghiêu Thần là một vài ví dụ.

4. Về các tác phẩm tiêu biểu

4.1. Tác phẩm Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) – Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

a. Thể loại: Văn bản Thu hứng thuộc thể loại Thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

b. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác văn bản Thu hứng

– Văn bản Thu hứng ra đời vào mùa thu năm 766, tác giả đang sống phiêu bạc, đau ốm, khốn khó tại Quì Châu

c. Phương thức biểu đạt: văn bản Thu hứng có phương thức biểu đạt là miêu tả, biểu cảm

d. Tóm tắt văn bản Thu hứng

– Trong bài thơ hiện lên bức tranh thiên nhiên với không khí ảm đạm, hiu gắt của mùa thu. Để rồi từ đó tác giả thể hiện cái tình , cái nước nhớ thương dân

e. Bố cục văn bản Thu hứng

+ Phần 1 4 câu thơ đầu: bức tranh thiên nhiên ảm đạm, hiu hắt của mùa thu

+ Phần 2 4 câu thơ cuối: Bộc lộ cái tình của nhà thơ nhớ nước, thương dân

g. Giá trị nội dung văn bản Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)

– Bức tranh phong cảnh mùa thu, cùng với lòng nước, thương dân của tác giả

h. Giá trị nghệ thuật văn bản Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)

– Giọng thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng, câu chữ tinh luyện

– Bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình

– Ngôn ngữ ước lệ nhiều tầng ý nghĩa.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết tại Giải Bài Tập. Mời các bạn cùng xem các nội dung giải trí học tập và các kiến thức thú vị khác tại đây.

Chia sẻ bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển hướng trang web