I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
a. Tác giả
– Sinh năm 1921 và mất 1988. Tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Bút danh là Quang Dũng. Quê ở Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây.
– Xuất thân từ một gia đình nho học
* Quá trình trưởng thành:
– Học đến bậc trung học, sau cách mạng Tháng tám 1945 nhập ngũ.
– Năm 1954, làm biên tập viên ở NXB Văn học.
– Là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
– Nhưng trước hết, Quang Dũng là một nhà thơ – một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính.
– Những tác phẩm chính: Mây đầu ô (1996). Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
b. Bài thơ Tây Tiến
– Tây Tiến là tên một đơn vị chủ lực, được thành lập đầu năm 1947. Đơn vị bao gồm những thanh niên Hà Nội, lao động chân tay và giới trí thức, QD cũng trong đoàn quân ấy. Nhiệm vụ của đơn vị là hành quân lên phía Tây thuộc biên giới Việt – Lào, giữ vững vùng biên cương, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến ở chiến trường Điện Biên. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, bao gồm tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, kéo sang Sầm Nưa (Lào), về tới sông Mã (Thanh Hoá). Cơ sở vật chất thiếu thốn, địa bàn phức tạp, bệnh sổt rét rừng hoành hành. Nhưng người lính Tây Tiến vẫn vượt qua.
– Năm 1948 đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị, Quang Dũng nhớ đồng đội cũ. Tại Phù Lưu Chanh một làng thuộc tỉnh Hà Đông, Quang Dũng đã viết bài thơ này. Những ngày tháng cùng đơn vị hành quân chiến đấu, vượt qua những gian nan, thử thách, biết bao đồng đội đã ngã xuống ở nơi biên cương. Nỗi nhớ da diết, tình cảm đồng đội đã thôi thúc Quang Dũng. Ông đã viết bài thơ trong hoàn cảnh ấy. Bài thơ có tiêu đề Nhớ Tây Tiến. Năm 1975 khi cho in lại, Quang Dũng đặt tên cho bài thơ là Tây Tiến. Bài thơ rút trong tập Mây đầu ô.
– Mục đích sáng tác bài thơ là ghi lại những kỉ niệm một thời của những người lính Tây Tiến. Đó là những ngày hành quân chiến đấu gian khổ trong địa bàn dốc cao, vực thẳm, bệnh sốt rét rừng hoành hành. Nhiều đồng đội đã hi sinh. Mặt khác bài thơ khắc hoạ người lính với tinh thần lạc quan, chiến đấu dũng cảm với lí tưởng “chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh”. Bài thơ cũng ghi lại những kỉ niệm đẹp về tinh thần và cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Có nhiều bài thơ viết về anh bộ đội Cụ Hồ thời chống Pháp, chống Mĩ. Nhưng với bài Tây Tiến đã để lại những cảm nhận đẹp trong lòng người đọc về người lính một thời hào hùng, hào hoa và bi tráng.
– Bài thơ miêu tả nỗi nhớ da diết của tác giả về đồng đội trong những chặng đường hành quân chiến đấu gian khổ, đầy thử thách hi sinh trên cái nền của thiên nhiên Tây Bắc, Bắc Bộ hùng vĩ, dữ dội. Đồng thời thể hiện những kỉ niệm đẹp về tình quân dân và khắc sâu lí tưởng chiến đấu của người lính Tây Tiến
– Bài thơ chia làm 3 đoạn:
+ Đoạn một từ đầu đến “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Ý đoạn này là nỗi nhớ của tác giả về cuộc hành quân, chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến trên cái nền của thiên nhiên Tây Bắc, Bắc Bộ vừa hùng vĩ, vừa dằn dữ.
+ Đoạn hai tiếp đó đến “Khúc độc hành”. Nhớ lại những đêm liên hoan đổt lửa trại, tình cảm quân dân trên cái nền thơ mộng của núi rừng.
+ Đoạn ba: còn lại. Khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến. Sự hi sinh mang đầy chất bi tráng và khắc sâu lí tưởng chiến đấu của người lính Tây Tiến.
– Cảm hứng chính của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Những người lính Tây Tiến phần lớn là những người Hà Nội mang đậm chất hào hoa. Hồn thơ Quang Dũng cũng thế. Đó là chất lãng mạn của những chàng trai kinh thành.
+ Khung cảnh núi rừng miền Tây Bắc, Bắc Bộ tuy dữ dội ác liệt nhưng cũng đầy chất thơ mộng, trữ tình, các chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn của những những chiến sĩ “vung gươm ra xa trường”. Hồn thơ vốn dĩ lãng mạn của Quang Dũng bắt gặp khung cảnh thiên nhiên này tất yếu thể hiện cảm hứng lãng mạn.
+ Chiến trường ác liệt, hoang vu nhiều thú dữ, bệnh sổt rét rừng gây nhiều tử vong. Đó là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến, là cái bi. Quang Dũng không lẫn tránh cái bi nhưng lại mang đến âm hưởng hào hùng để bật lên thành chất bi tráng. Cả lớp trẻ thuộc đồng đội của Quang Dũng mang sẵn trong lòng bầu máu nóng “Thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “một đi không trở về”, “Đâu có giặc là ta cứ đi”, “chưa hết giặc là ta chưa về”. Lòng yêu nước như một luồng gió thổi vào tâm hồn của họ làm cho người lính Tây Tiến trở thành hào hùng rực rỡ. “Bài thơ này đã được khí phách của cả thời đại ùa vào chấp cánh” (Đọc lại Mây dầu ô, Văn Long)
– Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau để làm nên linh hồn, sắc diện của bài thơ.
– Trọng tâm bài thơ là thiên nhiên miền Tây Bắc, Bắc Bộ dằn dữ và thơ mộng làm nền để chân dung người lính được khắc hoạ với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và khắc sâu lí tưởng chiến đấu.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Mạch cảm xúc
– Mạch cảm xúc của bài thơ bắt đầu từ nổi nhớ. Đó là nỗi nhớ đồng đội:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
– Sông Mã, Tây Tiến là tên gọi cụ thể. Chắc hẳn cũng gợi nhớ về những năm tháng, miền đất, có sông, có rừng, cảm xúc của toàn bộ bài thơ. Sông Mã đại diện cho vùng đất miền Tây. Hai hình tượng song song kết đọng nỗi nhớ. Đó là miền Tây Bắc, Bắc Bộ và người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ ấy không bình thường: “Nhớ chơi vơi”. Hai tiếng “chơi vơi” tái hiện kí ức lúc đậm, lúc nhạt. Nó bồng bềnh khó tả. Có lúc nó chợt đến bằng hình ảnh vừa sống động, vừa lung linh.
– Từ nỗi nhớ mở đầu, mạch cảm xúc tái hiện lại cuộc hành quân chiến đấu với những thử thách, gian khổ, hi sinh và cả tình quân dân thắm thiết. Kế đó là nỗi nhớ về những đêm liên hoan và một vùng Châu Mộc đầy thơ mộng. Khung cảnh thiên nhiên ấy làm nổi bật hình ảnh người lính với những cảm hứng lãng mạn anh hùng, nét hào hoa của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn thơ mộng và đậm chất bi tráng. Nỗi nhớ là yếu tố liên kết ý thơ.
– Nỗi nhớ gọi về, dựng lên trong tâm trạng nhân vật trữ tình bao hình ảnh, những kỉ niệm không kém phần sâu sắc về một thời đẹp đẽ, hào hùng của tuổi trẻ. Nỗi nhớ đã tạo nên cảm xúc mãnh liệt. Thơ hay là thơ tạo ra cảm xúc ấy.
2. Nỗi nhớ đã tạc lên bức chân dung của người lính Tây Tiến
a. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội
– Câu thơ 3, 4 gợi cho ta nhận thức được những địa danh tên đất, tên làng. Đó là Sài Khao, Mường Lát, Đỉnh Sài Khao bốn mùa mây phủ.
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
– Sài Khao, Mường Lát mang vẻ hấp dẫn của xứ lạ. Câu thơ diễn tả vẻ đẹp huyền ảo. Đoàn quân đi trên đỉnh núi cao mù sương và dừng chân ở những bản làng, với gió núi hoa rừng… đầy lãng mạn. Nổi gian khổ vì thế cũng vơi đi. Mặt khác trong 14 âm tiết chỉ có 3 âm tiết là thanh trắc. 11 thanh bằng tạo âm hưởng đều đều, lan toả, lung linh, huyền ảo trong nỗi nhớ. Người đọc chỉ nhận ra núi, bản làng, hoa và sương khói bàng bạc. Nỗi vất vả mệt mỏi dường như bị lùi đi. Người lính Tây Tiến hiện lên giứa thiên nhiên hùng vĩ.
– Nỗi nhớ như vượt ra trạng thái lung linh, mờ ảo, chơi vơi để làm hiện lên rõ nét cuộc hành quân chiến đấu đầy gian khổ thử thách và hi sinh:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
– Cuộc hành quân đi qua núi cao vực thẳm. Đường lên quanh co, uốn khúc, lên cao mãi. Đường lên cao bao nhiêu lại xuống bấy nhiêu. Đặc biệt đường hành quân qua rừng thiêng, nước độc, đầy thú dữ: “Chiều chiều oai linh… người”.
– Có thể nhận ra thiên nhiên miền Tây Bắc Bắc Bộ không chỉ hùng vĩ mà dữ dội. Từ đó càng thấu nỗi vất vả, gian khổ của người lính Tây Tiến biết chừng nào.
– Đó là nghệ thuật tạo hình và phối hợp thanh điệu.
+ Hình ảnh đèo dốc, vực thẳm gợi sự khó nhọc, gian khổ nhưng vẫn tìm thấy niềm vui tinh nghịch của người lính: “Súng ngửi trời”. Lúc này, người lính đã vượt lên những đỉnh núi cao, súng chạm mây trời. Lạc quan lắm. Mặt khác “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống” gợi ra một thực tế lên dốc khó hơn xuống dốc. Hình ảnh “Gục lên súng bỏ quên đời” không hề nói tới cái chết, coi cái chết nhẹ nhàng như giấc ngủ. Vả lại “bỏ quên đời” chứ không phải là chết. Cái bi thảm bị lút đi, để cái tráng, cái bi hùng nổi lên.
+ Sự phối âm cũng là một nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ. Câu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, bảy tiếng có tới năm tiếng thanh trắc. Sự phối hợp âm thanh này nhằm diễn tả sự khó nhọc của người lính Tây Tiến hơn là diễn tả dốc cao, vực thẳm. Đáng lưu ý là câu thơ “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn vần bằng diễn tả âm thanh của những trận mưa rừng đều đều không ngớt. Mưa ở một không gian rộng, xa dưới chân núi trắng trời mà đoàn quân Tây Tiến hành quân trong gió núi, mưa rừng. Sự tạo hình phổi hợp âm thanh đem đến một không gian vừa có chiều cao, bề rộng, độ sâu của thiên nhiên miền Tây Bắc Bắc Bộ vừa hùng vĩ, vừa dằn dữ. Vượt lên tất cả là hình ảnh người lính Tây Tiến bất chấp gian khổ, vững bước trên đường hành quân mặc dù cái chết lúc nào cũng rình rập ập tới.
– Hai câu thơ cuối đoạn:
Nhớ ai Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Đây là điểm đến, điểm hẹn của cuộc hành quân. Người lính Tây Tiến sau chặng đường gian khổ đã dừng lại, tạm nghỉ chân ở một bản làng nào đó thuộc đất Mai Châu. Những bữa cơm đơn giản giữa rừng, hương vị ngọt ngào của nắm xôi em trao để tình quân dân nặng hơn tình cá nước. Câu thơ cuối đoạn gồm bảy tiếng chỉ có một thanh trắc. Nó nhẹ nhàng gợi cảm giác vương vấn lan toả trong tâm hồn người đọc, người nghe. Nó bắc cầu cho mạch cảm xúc ở những câu thơ tiếp.
b. Người lính Tây Tiến giữa khung cảnh núi rừng thơ mộng
– Có hai hình ảnh đáng chú ý:
+ Một là cuộc liên hoan đốt lửa trại.
+ Hai là hình ảnh người chiến sĩ giao liên trên dòng sông thuộc đất Châu Mộc một chiều sương. Để từ đó nhận ra hình ảnh người lính Tây Tiến.
– Đây là cảnh đêm liên hoan:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…..
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Trong ánh sáng của đuốc hoa (hoa chúc) cảnh vật trở nên rực rỡ, lung linh. Các cô gái trong bộ xiêm rực rỡ vẫn giữ được dáng điệu e ấp, vẻ đẹp riêng của người con gái dẻo cao. Bút pháp lãng mạn tìm đến những người liên tưởng giúp người đọc nhận ra niềm vui tràn ngập, tình tứ qua từ ngữ (đuốc hoa, em, nàng e ấp). Ta như thấy anh bộ đội Tây Tiến nắm tay các cô gái và thướt tha trong vũ điệu. Ta như thấy các cô gái dân tộc nở nụ cười tươi, đôi mắt long lanh trong “man điệu”. Tất cả càng sống động thêm trong tiếng khèn, những âm thanh nhạc cụ của một vùng sơn cước. Và trong không khí vui nhộn ấy có cả những chàng trai cô gái Lào với vũ điệu lâm tơi: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đâu chỉ chiến đấu dũng cảm chịu nhiều gian nan thiếu thốn, vượt qua thử thách hi sinh, người lính Tây Tiến bộc lộ niềm vui, vẻ đẹp tâm hồn trong những đêm liên hoan như thế. Ta bỗng liên tưởng tới câu thơ của Tố Hữu trong bài Nước non ngàn dặm:
Những chàng lính trẻ măng tơ
Ngêu ngao gõ bài hát chờ cơm sôi
Tâm hồn người lính là vậy đấy đâu chỉ thấy ở chiến sĩ Tây Tiến.
– Đó là bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
– Cảnh vật như mờ đi trong chiều sương buông. Nó trở nên mềm mại và có hồn hơn nếu ta đặt nó bên cạnh dốc cao, vực thẳm. Những bông lau lay động trên hai bờ con sông, nó trở nên mềm mại và có hồn hơn nếu ta đặt nó bên cạnh dốc cao, vực thẳm. Những bông lau lay động trên hai bờ con suối. Một thứ cây man dại (mọc tự nhiên), mang đặc trưng của rừng núi phía bắc được hồn thơ người lính thổi vào. Bất giác ta nhớ lại thuở xa xưa Đinh Bộ Lĩnh lúc còn nhỏ đã từng lấy bông lau làm cờ để rồi trở thành ông vua dẹp loạn 12 xứ quân. Những bông lau mang hồn thơ lãng mạn đến muôn đời.
– Nổi bật giữa thiên nhiên đầy thơ mộng ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến trên con thuyền độc mộc (thuyền làm bằng một cây gỗ to), chèo thuyền cho các anh bộ đội là những người dân địa phương. Quang Dũng đã ghi lại trong thơ mình “dáng người”, với đôi mắt “đong đưa”. Ở đây có nhiều cách hiểu. Có người cho đó là “dáng người” thon thả cùng với nụ cười tươi như hoa nở với đôi mắt lúng liếng, “đong đưa” của cô gái chèo đò. Cũng có người cho những dáng người chắc khoẻ ngồi trên con thuyền độc mộc lướt nhanh trên dòng nước lũ, len lỏi bên những cây rừng, những đám hoa mọc hai bên bớ suối hẹp. Cũng có cách hiểu đó là “dáng người”, “hoa” và “đong đưa” tạo thêm một nét làm duyên cho bức tranh thiên nhiên. Chính nét đẹp ấy tô đậm thêm tâm hồn của người lính. Tâm hồn người lính đâu phải “khô như ngói” mà chan chứa ân tình và thơ mộng lãng mạn lắm. Câu thơ của Quang Dũng làm ta liên tưởng tới bài thơ Giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ mà Lê Anh Xuân ghi lại:
Em ngủ vườn chưa xanh nắng thưa
Êm êm dịu dịu dưới thên dừa
Trong cuộc chiến tranh ác liệt ngày đánh Mĩ, bom đạn dội xuống bất kể lúc nào mà tâm hồn người lính vẫn yêu đời, lãng mạn đến thế. Trở lại bài thơ của Quang Dũng hắn ta cũng nhận ra tâm hồn của người lính Tây Tiến.
– Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra đậm nét trong đoạn thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
….
Sông mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu thơ đầu “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
+ “Đoàn binh” chứ không phải đoàn quân. Đoàn binh tạo ra âm vang mạnh mẽ hơn. Ba tiếng “không mọc tóc” gợi ra nét ngang tàng độc đáo. Cả câu thơ tạo hình ảnh hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của người lính Tây Tiến. Hình ảnh:
+ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” tố đậm thêm nét kiêu hùng của người lính. Cảm hứng lãng mạn đầy chất tráng ca đã giúp Quang Dũng hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến bằng những nét vẽ phi thường, độc đáo vượt lên mọi khổ ải thiếu thốn.
Cuộc hành quân chiến đấu trong gian khổ ở rừng thẳm núi cao, người lính bị sốt rét đến xanh da, trọc tóc. Qua cảm hứng của Quang Dũng thì sự thật ấy không hề tỏ ra tiều tuỵ, ốm yếu, bệnh tật mà khoẻ khoắn, dữ dội đầy chất ngang tàng, bất chấp tất cả. Nếu đặt những câu thơ này bên cạnh những câu viết bằng bút pháp hiện thực, chúng ta sẽ thấy rõ:
* Sốt run người vầng trán mướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Đồng chí – Chính Hữu)
* Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa
(Lê Cấm Sơn – Thôi Hữu)
– Đó là nét đẹp hào hoa, lãng mạn, đầy thơ mộng của những chàng trai Hà Nội.
+ Hà Nội với những “dáng kiều thơm” vẫn hiện lên trong tâm tưởng người lính Tây Tiến với nỗi nhớ da diết
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Thơ ca kháng chiến nhất là kháng chiến chống Pháp ít nói về sự hi sinh, mà có nói cũng chỉ thoáng qua vài nét mờ nhạt. Các anh bộ đội hi sinh về tình cảm riêng, nén chặt trong lòng chờ ngày trở về. Cũng có bao lứa đôi không thành vì một trong hai người đã ngã xuống bởi viên đạn của kẻ thù qua các bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Núi đôi của Vũ Cao. Quang Dũng cũng nói về sự hi sinh ấy với nét hào hoa lãng mạn. Nhà thơ khắc sâu sự hi sinh bằng cảm hứng bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
– Những nấm mồ chiến sĩ nằm rải rác ở biên cương nhân lên cảm xúc của sự bi thương. Chứng tỏ Quang Dũng không hề lảng tránh sự thật. Nhưng tinh thần, khí phách tuổi trẻ một thời đã tự nguyện “chẳng tiếc đời xanh”, vượt lên bất chấp cả cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống của mình cho Tổ quốc. Đây không chỉ là cảm nhận của thơ ca mà là dũng khí tinh thần, hành động của tuổi trẻ Việt Nam trên hành trình cứu nước.
– Tình đồng đội thật cảm động. Người lính ngã xuống, đồng đội chỉ có thể khâm liệm thi hài bằng chính áo quần của họ. Điều kiện thiếu thôn biết làm sao! Hai tiếng “về đất” gợi tình gần gũi chân thật. Sống để chiến đấu giữ gìn tự do độc lập cho tổ quốc. Khi hi sinh người lính lại trở về đất mẹ yêu thương. Quang Dũng không đi theo hướng của đạo thành Gia Tô “con người sinh ra trong cát bụi lại trở về cát bụi” mà biểu hiện bằng xúc cảm trang trọng, thiêng liêng. Đoạn thơ có 28 chữ thì 13 chữ (gần một nửa) là từ Hán Việt. Cách sử dụng từ ngữ đã tạo nên sự tôn kính trang nghiêm. Đặc biệt âm hưởng của câu thơ có tiếng “gầm lên” của sông Mã. Phải chăng trong giờ phút li biệt những người con thân yêu đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ Quốc, cả non sông đang tấu lên khúc nhạc, cử hành khúc nhạc tiễn đưa. Quang Dũng đã gửi vào câu thơ một khúc bi tráng.
3. Khẳng định lí tưởng chiến đầu và tình cảm đồng đội
– Bốn câu thơ cuối bài:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
…
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
– Quang Dũng khẳng định tình cảm của mình với đồng đội. Nhà thơ nhớ về “Tây Tiến” là nhớ về tuổi trẻ một thời say mê, hào hùng. Đến lúc này (1948) mặc dù đã xa đơn vị, xa những người đồng đội thân yêu, xa miền Bắc Tổ quốc, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi nhớ bằng sự khẳng định không bao giờ quên.
– Mặt khác đoạn thơ kết bài thể hiện lí tưởng chiến đấu “một đi không về” của người lính. Họ ra đi chiến đấu không hẹn ngày trở về. Bởi “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi” và “chưa hết giặc là ta chưa về”.
Nguồn Tìm Đáp Án